Tham nhũng là vấn đề bức xúc nhất hiện nay
"Đảng nhiều lần nhận định: Tham nhũng gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ", ông Trương Tấn Sang (Thường trực Ban Bí thư) nhấn mạnh tại Hội nghị tổng kết phòng, chống tham nhũng năm 2009.
Ngày 28/1, tại Hà Nội, ông Sang cho biết, công tác phòng chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đây được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chỉ đạo, điều hành với mục tiêu được xác định đến năm 2010 là “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí…”.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), công tác phòng chống tham nhũng có nhiều chuyển biến, đạt kết quả tích cực. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng đã có bước kiềm chế và có xu hướng giảm (quản lý, sử dụng tài sản công; chi tiêu thường xuyên bằng vốn ngân sách; quản lý, sử dụng ODA; thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia…).
So với các năm trở lại đây, nay công tác phòng chống tham nhũng đã có tiến bộ và đạt hiệu quả tốt hơn. Dù vậy, so với yêu cầu hiệu quả còn thấp, kết quả chưa đạt như mong đợi. Tình hình tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp, là vấn đề mà xã hội quan tâm, bức xúc nhất hiện nay...
Theo kế hoạch năm 2010, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sẽ được tăng cường.
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh công khai, minh bạch trong hoạt động; tập trung vào các lĩnh vực: sử dụng ngân sách, tài sản công, kinh phí chi tiêu nội bộ, công tác tổ chức nội bộ.
Năm 2009, các ngành trung ương tiến hành 3.038 cuộc kiểm tra việc thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn; phát hiện 202 vụ vi phạm, với tổng giá trị sai phạm 16,5 tỷ đồng. Gần 190 cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật; 13 người bị kiến nghi xử lý hình sự...
Ngành thanh tra phát hiện 150 vụ, hơn 430 người có liên quan tham nhũng với số tiền 74,85 tỷ đồng, 10,6 ha đất. Các cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi 55,2 tỷ đồng (đã thu hồi 22,78 tỷ đồng), kiến nghị xử lý hành chính 64 tập thể, 366 cá nhân; kiến nghị xử lý trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó với 41 trường hợp.
(Theo TTXVN)
© Copyright 1997-2010 VnExpress.net, All right reserved Contact us - Thông tin Tòa soạn
® VnExpress giữ bản quyền nội dung trên website này.
Chiều nay 16:00PM ngày thứ sáu 29/1/2010 rảnh rỗi lại học bài ĐT và thời hạn để ĐCĐT theo quy định một lần 4 tháng với loại ĐBNT x 3lần = 12 tháng do VKSND HN đảm trách, để đi tới QĐ ĐCĐT VTH theo 165/BLTTHS này...
Cách đây 160 năm (1849) khi có chuyện Gold Rush (sốt tìm vàng) ở California (Mỹ) làm cho mấy trăm ngàn người khắp nơi trến thế giới kéo tới đây tìm vận may.Đó là một nơi luật trong tay kẻ mạnh nên mọi cuộc xử án tranh chấp được quyết từ trước khi phiên tòa xảy ra. Người ta không quan tâm đến chứng cứ mà dựa trên ý kiến của một vài tay mafia hay cao bồi trong bóng tối.Dân Mỹ gọi kiểu tòa án này là tòa án Kangaroo (Kangaroo Court), xử không cần nhân chứng, vật chứng. Kangaroo là chuột túi ở Úc, chả liên quan gì đến tòa án. Nhưng Kangaroo mẹ hay cho con vào túi bụng.Những vị quan tòa đến xét xử đã có bản án sẵn trong túi nên mới gọi kiểu xử này là Kangaroo Court chăng?
“Truy tố chuẩn” để tránh bị toà bác
Pháp luật TPHCM - 24/10/2009
(PL)- Một thực trạng đáng lo là gần đây, nhiều vụ án đã bị toà án trả hồ sơ về làm lại hoặc tuyên bị cáo không phạm tội. Điều này cho thấy chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của ngành kiểm sát vẫn chưa thực sự đảm bảo.
Điệp khúc trả hồ sơ
Thực tế, rất nhiều vụ án bị toà trả hồ sơ điều tra bổ sung năm lần bảy lượt mà vẫn chưa xong. Có thể kể đến vụ nguyên giám đốc Công ty Đầu tư phát triển du lịch và khoa học kỹ thuật (IDC) Đặng Nam Trung bị truy tố về tội tham ô tài sản như một điển hình.
Hồi đầu tháng 9, TAND TP.HCM đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có nhiều tình tiết quan trọng chưa rõ, có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng tố tụng như không cho luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra... Tính ra, đây đã là lần thứ chín VKS và TAND TP trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Điều đáng nói là yêu cầu điều tra bổ sung của TAND TP đặt ra lần này cũng tương tự như yêu cầu của Toà phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM khi huỷ bản án sơ thẩm từ hồi tháng 12-2008 nhưng rồi cả cơ quan điều tra lẫn VKS đều không đáp ứng được.
Ngoài việc bị trả hồ sơ, không ít vụ án lại bị đình chỉ sau khi đã khởi tố, truy tố. Chẳng hạn mới đây, trong vụ sai phạm đất đai ở thị xã Móng Cái (Quảng Ninh), VKS tỉnh này đã đình chỉ điều tra đối với hai bị cáo nguyên là phó phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã và phó chủ tịch xã.
Tương tự, VKSND tối cao vừa đình chỉ điều tra vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Tổng Công ty Mía đường II, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự ba cựu lãnh đạo của tổng công ty này. Cũng mới đây, liên quan đến những tiêu cực trong quá trình thi công tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 2004, VKSND tối cao đã đình chỉ điều tra, miễn trách nhiệm hình sự đối với một cựu phó chủ tịch tỉnh Lai Châu.
Còn hồi đầu năm nay, TAND quận 1 (TP.HCM) cũng đình chỉ vụ Trương Thị Kim phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý sau khi VKS quận rút quyết định truy tố, thừa nhận chưa đủ cơ sở vững chắc để xác định bị can phạm tội.
Thiếu căn cứ vẫn truy tố
Nhìn lại, không ít vụ án VKS truy tố nhưng toà tuyên bị cáo trắng án vì thiếu căn cứ buộc tội.
Chẳng hạn vụ ông Đặng Ngọc Dân bị VKS quận Gò Vấp (TP.HCM) truy tố về tội vi phạm các quy định về điều khiểu phương tiện giao thông đường bộ. TAND quận Gò Vấp tuyên ông Dân trắng án vì chứng cứ trong hồ sơ cho thấy ông không có lỗi trong tai nạn. VKS quận kháng nghị, cương quyết giữ quan điểm nhưng lại không đưa ra được chứng cứ buộc tội nào khác với ông Dân nên TAND TP đã y án.
Một vụ khác, VKSND thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) truy tố 16 bị cáo về hành vi tham ô tiền phí cầu, đường nhưng toà cho rằng VKS không chứng minh được thiệt hại nên không thể kết tội. Trước đó, TAND huyện Dĩ An (Bình Dương) cũng tuyên một bị cáo trắng án vì thiếu căn cứ buộc tội. Theo toà, hồ sơ đã được trả điều tra bổ sung nhiều lần trước đó, giờ có trả nữa cũng không thể làm rõ thêm được gì.
Mới đây nhất, TAND huyện Chơn Thành (Bình Phước) vừa xử sơ thẩm lần hai, tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Kiên không phạm tội cố ý gây thương tích và trả tự do ngay tại toà. Toà nhận định cơ quan điều tra và VKS đã không làm rõ được thủ phạm là ai, không làm rõ được hung khí nào gây ra thương tật, vết thương của nạn nhân bị tác động bởi ngoại lực nào...
Những nguyên nhân chính
Mổ xẻ thiếu sót, trong nhiều hội nghị, ba ngành tố tụng đã truy ra một số nguyên nhân chính.
Đầu tiên là năng lực tổng hợp, đánh giá chứng cứ, phát hiện các sai sót về tố tụng của một số kiểm sát viên còn hạn chế nên chất lượng cáo trạng truy tố không cao, hồ sơ chưa thể hiện được một cách vững chắc những tình tiết, chứng cứ buộc tội.
Cạnh đó, khả năng và kỹ năng xét hỏi, tranh luận, đối đáp của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố cũng còn nhiều điều phải rèn giũa. Có kiểm sát viên ra toà tranh luận kém, bị luật sư vặn tơi bời, bí thế nên “bảo lưu ý kiến”, trong khi theo tinh thần cải cách thì bản án là kết quả tranh tụng tại toà.
Một chuyện nữa là nhiều trường hợp khi tiếp nhận vụ việc, VKS nhận định chưa thấu đáo nên sau khi phê chuẩn việc khởi tố lại phải đình chỉ vì không có căn cứ. Nhiều kiểm sát viên lơi lỏng, không thường xuyên phối hợp, kiểm tra tiến độ điều tra để phát hiện các mâu thuẫn, thiếu sót, vi phạm tố tụng nên chất lượng hồ sơ án kém.
Một vấn đề lớn cũng được các cơ quan tố tụng nhìn nhận chính là chuyện toà với viện bất đồng quan điểm trong một số vụ án cụ thể. Điều này có thể do pháp luật chưa quy định rõ, còn lỗ hổng... nên “ông hiểu gà, bà hiểu vịt”. Ngoài ra, năng lực của cán bộ tố tụng cũng không đồng đều nên hiểu không hết quy định pháp luật.
100% vụ án phải được kiểm sát
Trong hội nghị triển khai công tác năm 2009, theo Viện trưởng VKSND TP.HCM Võ Thị Kim Hồng, để hạn chế các trường hợp khởi tố điều tra sau đó đình chỉ do không đủ chứng cứ thì cán bộ ngành kiểm sát TP phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính thận trọng, kiên quyết trong việc ra quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn, các quyết định áp dụng, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn trong vụ án hình sự. Ngành kiểm sát TP cũng sẽ tăng cường hoạt động kiểm sát điều tra để đảm bảo 100% vụ án đều được kiểm sát từ khi khởi tố...
Bài viết “Truy tố chuẩn” để tránh bị toà bác được máy tìm kiếm Xa Lộ tự động quét trên mạng. Nếu thấy có nội dung xấu, xin bạn vui lòng gửi thư điện tử cho chúng tôi, bao gồm tên bài viết “Truy to chuan” de tranh bi toa bac ở dạng tiếng Việt không dấu, hoặc “Truy tố chuẩn” để tránh bị toà bác ở dạng có dấu.
Điều 4. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
Điều 5. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Điều 6. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân
Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.
Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này.
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này.
Điều 12. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 13. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.
Điều 14. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều 15. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Điều 16. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Điều 17. Toà án xét xử tập thể
Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Điều 18. Xét xử công khai
Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều 19. Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Còn sống, thì còn học hỏi cách sống. (Seneca)
Tài sản quý báu nhất của con người là con tim, trí tuệ và nhan sắc chỉ là những tấm khăn quàng (A. D. Musset)
Đời là một cuộc phiêu lưu táo bạo, hoặc không là gì cả (Helen Heller)
Đã là con người thì ai cũng muốn hạnh phúc; song để đạt được điều đó, cần phải bắt đầu bằng việc hiểu hạnh phúc là gì (Jean-Jacques Rousseau)
Bạn sẽ khám phá ra chính mình đang ở một bậc cao hơn sau mỗi lần bạn vượt qua nghịch cảnh (Thomas Edison)
Người nói nhiều là kẻ không có gì để nói. (L. Tolstoi)
Trên đời không có Thượng đế nào đẹp hơn mặt trời, không có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn ngọn lửa tình yêu. (M. Goocki)
Chẳng điều gì có thể giúp tăng cường sức mạnh đời bạn cho bằng việc dồn tất cả mọi khả năng tiềm tàng trong bạn vào một nhóm các mục tiêu chính yếu nào đó. (Nido Qubein)
Người nào thời thơ ấu đã biết lao động là quy luật của cuộc sống, người nào từ tuổi thanh xuân đã biết rằng bánh mì chỉ có thể kiếm được bằng mồ hôi, người đó có khả năng lập nên kỳ công (Jules Verne)
28/01/2010 - 02:20 PM
Đình chỉ điều tra bị can vụ chủ tịch huyện mất tiền
Ngày 23-1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đã ra quyết định đình chỉ điều tra bị can trong vụ việc ông Nguyễn Văn Diện, nguyên quyền Chủ tịch UBND huyện Phong Thổ mất 145 triệu đồng tại két sắt ở phòng làm việc.
Đây là một vụ án được dư luận xã hội quan tâm do có nhiều tình tiết mâu thuẫn trong kết quả điều tra và TAND huyện Phong Thổ trả lại hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung.
Ngày 20-4-2009, ông Nguyễn Văn Diện, lúc đó là Quyền chủ tịch UBND huyện Phong Thổ khai báo bị mất 145 triệu đồng, cùng một số tiền trong phong bì để trong két sắt tại phòng làm việc.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ đã điều tra, xác định nghi can là anh Hoàng Tiến Yên, sinh năm 1984, nhân viên bảo vệ trụ sở UBND huyện Phong Thổ đã trộm cắp số tiền trên.
Ngày 18-11-2009, VKS huyện Phong Thổ đã có quyết định truy tố và tòa án huyện Phong Thổ đã đưa ra xét xử ngày 25-12-2009.
Tuy nhiên, trước tòa anh Yên khai đã bị bức cung, mớm cung. Cùng với hàng loạt các tình tiết trong hồ sơ vụ án không khớp với lời khai của bị cáo và người bị hại, tòa án huyện đã quyết định trả hồ sơ vụ án lại cho cơ quan chức năng để tiếp tục điều tra bổ sung.
Nay đã hết thời hạn điều tra, song cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ không tìm ra được chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của anh Yên.
Ngày 23-1-/2010, sau khi họp liên ngành tố tụng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phong Thổ ra quyết định đình chỉ điều tra bị can với lý do “đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện phạm tội”.
Anh Yên bị tạm giam gần 9 tháng, được tạm tha ngày 7-1-2010 trong một quyết định “thay đổi biện pháp ngăn chặn” đối với bị can trong quá trình điều tra, trước khi có quyết định đình chỉ điều tra bị can.
Căn cứ Điều 120 và Điều 121 Bộ luật tố tụng Hình sự hiện hành thì thời hạn tạm giam để điều tra theo từng trường hợp như sau:
1. Thời hạn tạm giam bị can bị giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được qui định như sau:
a. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng.
b. Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng.
c. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng.
d. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Trong trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 165 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a. Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng.
b. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.
4. Trong trương hợp vụ án do VKS trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng. nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. VKS hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày CQĐT nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
5. Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều tra thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại Điều 119 của Bộ luật này. Thời hạn điều tra được tính từ khi CQĐT nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
6. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, CQĐT có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, để điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra nêu trên.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
Ngày gửi: 25/04/2009 - 11:47 Theo Chu Quốc Hùng (Vietnam+)
Điều 119. Thời hạn điều tra
1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
A) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
B) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
C) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
D) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát được quy định như sau:
A) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
B) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
C) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
D) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định nh¬ư sau:
A) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
B) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá một tháng;
C) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng;
D) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như¬ sau:
A) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
B) Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho ng¬ười bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 121. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1. Trong trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 165 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
A) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
B) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.
Thẩm quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 119 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
3. Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại Điều 119 của Bộ luật này.
Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, để điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Điều 120 của Bộ luật này.
Điều 122. Giải quyết các yêu cầu của người tham gia tố tụng
Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này.
Điều 123. Sự tham dự của người chứng kiến
Người chứng kiến được mời tham dự hoạt động điều tra trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà Điều tra viên đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản.
Điều 164. Đình chỉ điều tra
1. Trong trường hợp đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra.
2. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong những trường hợp sau đây:
A) Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự;
B) Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
3. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ, nếu có và những vấn đề khác có liên quan.
Nếu trong một vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
4. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực hiện theo quy định tại Điều 166 của Bộ luật này.
Điều 165. Phục hồi điều tra
1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại điểm 5 và điểm 6 Điều 107 của Bộ luật này mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.
Điều 19. Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Điều 25. Trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1. Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
2. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết.
3. Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều 107. Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét