Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2010

10 món hàng đắt đỏ nhất Trung Quốc 2009
Ở việt Nam, với 300 triệu trong tay bạn có thể làm rất nhều thứ, nhưng số tiền này chỉ đủ để mua 1 mét vuông đất tại khu đô thị trung tâm Thượng Hải. Và Trung Quốc còn rất nhiều thứ đắt đỏ hơn nữa.






Ông Wang Ping, người quản lý cơ sở chăn nuôi chó giống Tibetan Mastiff ở Tứ Xuyên, đang khoe một trong những chú chó khổng lồ gốc Tây Tạng của mình. Ông đã từ chối một lời đề nghị trị giá 7,5 triệu NDT (20 tỷ VNĐ) kèm 1 ô tô BMW để mua chú chó 2 tuổi này (Ảnh: CFP).





Hai người mẫu đang quảng cáo cho một chiếc giường trong cửa hàng tại Quý Châu, Trung Quốc. Chiếc giường này được trang trí bằng vàng, kim cương và ngọc bích, bán với giá 5,88 triệu NDT (16 tỷ VNĐ ) (Ảnh: CFP).





Tại một sự kiện quảng cáo ở tỉnh Hồ Bắc, mỗi người phụ nữ sẽ cùng tham gia hôn một chiếc xe ô tô, và ai để lại dấu hôn đẹp nhất sẽ mang về nhà một xe Dongfeng trị giá 70.000 NDT (190 triệu VNĐ).





Hai thợ may đang sắp xếp chiếc áo cưới ở Bắc Kinh ngày 25/04/2009. Nó được trang trí bằng sợi và hạt bạch kim, được bán với giá 5 triệu NDT (13,5 tỷ VNĐ) (Ảnh: CFP).





Hai chiếc lồng giữ cua bằng vàng có giá 99.990 NDT (270 triệu VNĐ) ở tỉnh Giang Tô. Loài cua lông hiện là một món đặc sản hiếm có tại Trung Quốc. Ông Shi Tuanjie đã nhận bằng sáng chế cho ý tưởng này (Ảnh: The Beijing Youth).





Một con tem trong loạt tem chủ đề “Cả nước màu Đỏ” của nhà thiết kế Wan Weisheng in vào năm 1968, mừng thắng lợi của Cách mạng Văn hóa, đã xuất hiện trên sàn đấu giá ở Hồng Kông đầu tháng 11/2009. Loạt tem này đã in ra nhưng không được phát hành. Một số lượng nhỏ đã lọt vào tay tư nhân, và chúng trở nên giá trị hơn bao giờ hết. Con tem hiếm đã được trả giá tới 3,68 triệu đô-la Hồng Kông (8,8 tỷ VNĐ) (Ảnh: Xinhua).





Ông Shi Juying đã bỏ ra 990.000 NDT (2,7 tỷ VNĐ) chỉ để được là người đầu tiên thắp những nén nhang trước khu lăng mộ Phục Hy ở Hà Nam trong buổi lễ ngày 26/02/2009. Người ta tin rằng đây nơi lưu giữ những gì còn lại của Phục Hy, một trong 3 vị Hoàng Đế huyền thoại của Trung Quốc cổ, sống vào khoảng năm 2.800 trước CN (Ảnh: CFP).





Căn hộ sang trọng rộng 600 m² ở cao ốc Tomson Riviera, Thượng Hải, được bán với giá 96,09 triệu NDT (260 tỷ VNĐ) vào tháng 11/2009. Mỗi m² của nó là 168.848 NDT (457 triệu VNĐ), thiết lập một kỷ lục mới cho giá nhà ở Trung Quốc (Ảnh: China Daily).





Nhân viên bán hàng khoe 2 quả táo khổng lồ nhập khẩu từ Nhât Bản tại một siêu thị ở Thượng Hải ngày 31/01/2009. Mỗi quả được bán với giá 2.009 NDT (5,5 triệu VNĐ) (Ảnh: CFP).





Một cô gái xinh xắn đang đứng trên sân khấu để ra mắt 20 nam cử nhân trẻ tuổi nhà giàu trong một bữa tiệc mai mối tại Bắc Kinh hôm 20/12/2009. Muốn tham gia vào bữa tiệc này, mỗi anh chàng phải đóng một khoản phí không nhỏ là 100.000 NDT (270 triệu VNĐ). Tại đây, họ có thể gặp gỡ những cô gái là sinh viên đang theo học các trường nghệ thuật, được lựa chọn kỹ (Ảnh: Beijing Morning Post).
Chiều nay ngày 04/01/10 lúc 14:36 PM từ bầm ra viết tiếp bài ca của ngày, chiều nay CB sinh hoạt, khopong rõ CCB có họp không, vì Lộc không tham gia nữa...mình đã nhờ Trường nháy máy nếu có sinh hoạt...song cũng không thể tin được...Sáng nay lại viết Bolg để lưu bộ nhớ...14:43 Bá Hoa gọi 16:00 họp HCB đầu năm đóng hội phí...

NHÂN TÀI



Năm năm, MẤY cơ quan điều tra
Thủ phạm thì, tìm sắp sửa ra
Xứng danh cơ quan, Tư pháp Việt
Kém Trời tý tẹo, Sơn Tây ta...

* Viết hồi 10:01 AM ngày 04/01/2010 tại 11 PĐC; tg Vũ Tản Hồng.TP.HCM:
Đê bao không móng, 200 hộ dân ngụp lặn trong nước
Cập nhật lúc 13:58, Thứ Hai, 04/01/2010 (GMT+7)
,
- Rạng sáng 4/1, tại khu vực thuộc tổ 54 khu phố 8 (quận Thủ Đức, TP.HCM), triều cường dâng cao đã xô ngã 4 tấm đan khiến nước tràn vào khu dân cư gây ngập lênh láng.

Đoạn đê bao dọc theo Rạch Võ (P.Hiệp Bình Chánh, Q. Thủ Đức, TP.HCM) là dự án thí điểm bê tông tường chắn của TP được thực hiện từ năm 2006. Kết cấu của đê bao này gồm những mảng đan bê tông có kích thước 2m x 1m chôn chặt vào bờ đất.


. Bốn tấm đan nằm chổng trơ sau khi bị nước xô sập.


Nước dâng cao và nhanh khiến cho gần 200 gia đình không di chuyển kịp vật dụng. Trên những con đường ra vào khu phố, nước dâng khá cao khiến xe cộ không thể ra vào được.

Giải thích nguyên nhân, một cán bộ thủy lợi phường cho biết, trước đây khi thực hiện công trình do thiết kế không đóng cừ tràm bên dưới để giữ chặt bờ đất nên nước đã xoi lỗ mọt phá vỡ đê gây hậu quả như trên.

Hiện công tác khắc phục đã được tiến hành và dự kiến sẽ hoàn tất vào chiều cùng ngày.


Ngan, gà cũng phải lên cao.

Nhà dân ngập nước gây khó khăn trong sinh hoạt.


Xe cộ chết máy.

Khu dân cư chìm trong nước.

Lê Du AnPhó Chủ tịch Hà Nội 'đề nghị xử lý' một luật sư?
Cập nhật lúc 07:48, Thứ Hai, 04/01/2010 (GMT+7)
,
– Tháng 6/2009, UBND TP. Hà Nội ban hành văn bản số 5500 do Phó Chủ tịch thành phố Vũ Hồng Khanh ký, trong đó có nội dung “có biện pháp xử lý nghiêm đối với Văn phòng luật sư (LS) Tạ Định”. Văn bản này cho rằng ông Định đã “gây cản trở việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường GPMB" dự án Khu đô thị mới Tây Nam hồ Linh Đàm.

Bị đề nghị xử lý vì trợ giúp pháp lý cho dân?

Sự việc bắt đầu từ việc LS Tạ Định (Trưởng Văn phòng LS Tạ Định, thuộc Đoàn LS Hà Nội) nhận trợ giúp pháp lý cho hơn 200 hộ dân ở cụm dân cư Bằng A, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, TP.Hà Nội. Những hộ dân này chịu ảnh hưởng của dự án Khu đô thị mới Tây Nam hồ Linh Đàm. Dự án này đã được UBND TP. Hà Nội ra quyết định thu hồi đất từ năm 2007 với một diện tích đất nông nghiệp khá lớn.

Tuy vậy, đã 2 năm qua, công việc bồi thường giải phóng mặt bằng mới chỉ có 1/3 số hộ dân đồng ý nhận tiền đền bù. Số còn lại, hơn 200 hộ dân thôn Bằng A, phường Hoàng Liệt, đã khiếu nại lên chính quyền các cấp trong mấy năm nay.

Trong lúc đang tiến hành công việc trợ giúp pháp lý cho hơn 200 hộ dân thì LS Tạ Định nhận được công văn của UBND TP. Hà Nội đề nghị xử lý nghiêm văn phòng của ông.


Công văn số 5500 ngày 19/6/2009 do ông Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội ký có phần nội dung "có biện pháp xử lý nghiêm Văn phòng LS Tạ Định". Văn bản này đưa ra nhận định LS Định "nhận thức không đầy đủ... gây cản trở việc bồi thường GPMB dự án?". Ảnh: Duy Tuấn

Công văn số 5500 ngày 19/6/2009 của UBND TP. Hà Nội do Phó Chủ tịch thành phố, ông Vũ Hồng Khanh, ký có yêu cầu: “Có biện pháp xử lý nghiêm đối với Văn phòng LS Tạ Định theo các quy định của pháp luật”.

Văn bản này đưa ra nhận định “do nhận thức không đầy đủ và không nắm chắc những quy định của pháp luật về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân, LS Tạ Định đã có những văn bản không chính xác, không phù hợp với các quy định của pháp luật, gây cản trở trong việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường GPMB..., làm ảnh hưởng tới lòng tin của một số người dân…”.

Ngay sau khi nhận được công văn trên, LS Tạ Định đã có đơn khiếu nại gửi lãnh đạo UBND TP. Hà Nội, Thành uỷ về công văn số 5500 nói trên. Luật sư Định cho rằng, văn bản này chỉ căn cứ vào các báo cáo của chủ đầu tư là Tổng Công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị (HDD), UBND quận Hoàng Mai và báo cáo số 176 của Sở Tư pháp Hà Nội là không thoả đáng.


Luật sư Tạ Định, người trợ giúp pháp lý cho hơn 200 hộ dân Bằng A, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Ảnh: Duy Tuấn
“Nhận xét tôi như thế là chưa đúng, tôi không có hành vi như nội dung này đã nhận định… Tôi chỉ trình bày về quan điểm về thu hồi đất và GPMB”. LS Định chỉ ra rằng, không những ông không phải là người gây cản trở GPMB cho dự án mà ông thực hiện được việc ổn định trong nhân dân đi khiếu nại.

“Trong quá trình tư vấn cho bà con, tôi đã nhiều lần khuyên nhủ, nhắc nhở bà con không nên đi khiếu kiện đông người, không có hành vi quá khích… Và kể từ khi có LS tư vấn thì không còn tình trạng khiếu kiện tập trung như trước nữa”, ông Định cho biết thêm.

Đối với việc UBND TP. Hà Nội đề nghị xử lý nghiêm, ông Tạ Định cho biết thêm: "Sở Tư pháp có báo cáo 176 với những nhận xét kết luận liên quan đến bản thân tôi về hoạt động nghề nghiệp, đã ảnh hưởng đến uy tín , danh dự của tôi. Tôi xem đó là một hành vi xúc phạm đến LS của cơ quan quản lý Nhà nước về luật sư Hà Nội".

Quyết định thu hồi đất có đúng luật?

Trở lại với dự án Khu đô thị mới Tây Nam hồ Linh Đàm, ngày 25/9/2007, UBND TP. Hà Nội có quyết định số 3789 “thu hồi 492.841m­2 đất tại cụm Bằng A, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai và thôn Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, giao cho Tổng Công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị để đầu tư xây dựng Khu đô thị mới Tây Nam hồ Linh Đàm”.


Đã 2 năm trôi qua, dự án Khu đô thị mới Tây Nam hồ Linh Đàm vẫn chưa thể khởi công được vì vấp phải sự không đồng thuận của hàng trăm hộ dân Bằng A. Người dân ở đây cho biết, đây là lần thứ 3 đất nông nghiệp của họ bị thu hồi để làm khu đô thị. Ảnh: Duy Tuấn

Trong đó, cụm Bằng A bị thu hồi nhiều nhất với 440.854m2, bao gồm tất cả 100% đất nông nghiệp. Ngay từ đầu, dự án này đã vấp phải sự không thuận quyết liệt của nhân dân cụm Bằng A. Người dân không đồng ý giao đất cho dự án vì cho rằng giá đất đền bù quá thấp, mà trong nội dung dự án có cả việc xây nhà cao tầng, biệt thự để bán theo giá kinh doanh. Hơn nữa, việc thu hồi toàn bộ số đất nông nghiệp nhưng chủ đầu tư và chính quyền địa phương không có phương án chuyển đổi nghề nghiệp…

Nhận trợ giúp pháp lý cho người dân, sau khi nghiên cứu các quy định của luật pháp có liên quan đến việc thu hồi đất, LS Tạ Định đã có văn bản phân tích gửi UBND quận Hoàng Mai.

Ông Định cho rằng, đây là dự án phát triển kinh tế của một doanh nghiệp. Việc thành phố Hà Nội ra quyết định thu hồi 100% đất nông nghiệp là chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Luật sư Định viện dẫn khoản 2, điều 40 của Luật Đất đai: “Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế”. Đối với loại dự án này thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế, hộ gia đình cá nhân mà không thực hiện thủ tục thu hồi đất.

Trong lúc đó, dự án này lại có quyết định thu hồi đất, từ đó dẫn đến việc người dân chỉ được nhận tiền đền bù theo mức giá nhà nước quy định chứ không được thỏa thuận.


Luật sư Tạ Định đã có đơn khiếu nại đối với báo cáo số 176 của Sở Tư pháp và công văn số 5500 của UBND TP. Hà Nội đề nghị xử lý ông. Đến nay, LS Định không tiếp tục khiếu nại văn bản hành chính đề nghị xử lý ông nhưng nếu Sở Tư pháp Hà Nội không tổ chức đối thoại với ông để làm rõ một số nội dung trong báo cáo số 176 theo như chỉ đạo của UBND thành phố thì ông sẽ tiếp tục khiếu nại. Ảnh: Duy Tuấn

Tại quyết định thu hồi đất có đoạn: Dành 111.598,9m2 đất để xây dựng nhà ở, giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng lâu dài. Trong đó, có hơn 60 nghìn m2 đất để xây dựng nhà ở thấp tầng, biệt thự; hơn 50 nghìn m2 đất để xây dựng nhà ở cao tầng. Chủ đầu tư dành 30% quỹ nhà chung cư còn lại để bán cho cán bộ công nhân viên các cơ quan theo danh sách giới thiệu của UBND thành phố theo giá kinh doanh.

Vấn đề nữa mà LS Định nói đến là việc giá đền bù quá thấp. Riêng giá đất nông nghiệp chỉ có 252.000/m2. Do nhận định việc thu hồi đất nông nghiệp của bà con phục vụ dự án ”sản xuất kinh doanh” là chưa đúng nên theo quy định chủ đầu tư muốn được bàn giao đất thì phải có sự thoả thuận với người dân về giá…

Cuối cùng là vấn đề người nông dân bị thu hồi 100% đất nông nghiệp phải được giải quyết đất dịch vụ để họ có thể “kiếm kế sinh nhai” sau khi mất đất.

Sau những thông tin, căn cứ mà ông Định đưa ra về dự án Tây Nam hồ Linh Đàm, UBND quận Hoàng Mai cũng đã có văn bản trả lời luật sư, khẳng định những gì dự án đang tiến hành là đúng quy trình, quy định của pháp luật.

"Khẳng định của ông Giám đốc Sở Tư pháp Phan Hồng Sơn cho rằng quyết định số 3789/QĐ-UB thu hồi 492.841m2 đất giao cho Tổng HUD để đầu tư xây dựng... "là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 40 Luật Đất đai". Khẳng định như vậy là không chính xác. Nhận thức pháp luật của ông Giám đốc Sở Tư pháp mới không đầy đủ", LS Định nói trong đơn khiếu nại gửi lãnh đạo Hà Nội.

Cả hai bên, một bên là luật sư trợ giúp pháp lý cho người dân, một bên là chính quyền địa phương đều căn cứ vào quy định của pháp luật để bảo vệ quan điểm của mình. UBND TP. Hà Nội đã có văn bản đề nghị Sở Tư pháp cùng một số ban ngành vào cuộc để kiểm tra lại thông tin. Sau khi nhận được báo cáo của các cơ quan cấp dưới, thành phố đã ban hành công văn số 5500, đề nghị xử lý LS Tạ Định.

Tuy vậy, đang còn có nhiều ý kiến tranh luận trái chiều về dự án này cũng như việc UBND TP. Hà Nội đề nghị xử lý LS Tạ Định.

(Còn nữa)

Duy Tuấn ,
Gửi phản hồi
NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 114/2009/NĐ-CP NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 2009

SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 02/2003/NĐ-CP NGÀY 14 THÁNG 01 NĂM 2003 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ CHỢ





CHÍNH PHỦ



Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương,



NGHỊ ĐỊNH:



Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ như sau:

1. Bổ sung các khoản 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 vào Điều 2 như sau:

“6. Chợ chuyên doanh: là chợ kinh doanh chuyên biệt một ngành hàng hoặc một số ngành hàng có đặc thù và tính chất riêng.

7. Chợ tổng hợp: là chợ kinh doanh nhiều ngành hàng.

8. Chợ dân sinh: là chợ hạng 3 (do xã, phường quản lý) kinh doanh những mặt hàng thông dụng và thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của người dân.

9. Chợ biên giới: là chợ nằm trong khu vực biên giới trên đất liền (gồm xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với biên giới quốc gia trên đất liền) hoặc khu vực biên giới trên biển (tính từ biên giới quốc gia trên biển vào hết địa giới hành chính xã, phường, thị trấn giáp biển và đảo, quần đảo).

10. Chợ tạm: là chợ nằm trong quy hoạch nhưng chưa được xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố.

11. Chợ nông thôn: là chợ xã của các huyện và ở khu vực ngoại thành, ngoại thị.

12. Chợ miền núi: là chợ xã thuộc các huyện miền núi.

13. Chợ cửa khẩu: là chợ được lập ra trong khu vực biên giới trên đất liền hoặc trên biển gắn các cửa khẩu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nhưng không thuộc khu kinh tế cửa khẩu.

14. Chợ trong khu kinh tế cửa khẩu: là chợ lập ra trong khu kinh tế cửa khẩu theo các điều kiện, trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.

15. Doanh nghiệp kinh doanh, quản lý chợ: là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc trúng thầu về kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.

16. Hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ: là hợp tác xã được thành lập, đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc trúng thầu về kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.”

2. Điểm b khoản 2 Điều 3 được sửa đổi như sau:

“b) Chợ hạng 2:

Là chợ có từ 200 điểm kinh doanh đến 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố theo quy hoạch; được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường xuyên; có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hóa, kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ đo lường, vệ sinh công cộng.”

3. Khoản 1 Điều 4 được sửa đổi như sau:

“1. Chợ là một bộ phận quan trọng trong tổng thể hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển thương mại của từng địa phương phải bao gồm quy hoạch phát triển chợ. Quy hoạch phát triển chợ phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch thương mại, quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch khác có liên quan. Quy hoạch phát triển chợ lập theo nguyên tắc tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ và được cơ quan có thẩm quyền theo quy định phê duyệt và chỉ đạo thực hiện.”

4. Khoản 3, 4 Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“3. Nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước bao gồm vốn từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn viện trợ không hoàn lại. Trong đó, vốn từ ngân sách địa phương hỗ trợ đầu tư xây dựng các chợ đầu mối nông sản, thực phẩm và chợ hạng 2, hạng 3 ở địa bàn nông thôn, miền núi, hải đảo; vốn từ ngân sách trung ương chỉ hỗ trợ đầu tư một số chợ sau:

a) Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của chợ (mức hỗ trợ cụ thể theo quy mô của từng dự án):

- Chợ đầu mối chuyên doanh hoặc tổng hợp bán buôn hàng nông sản, thực phẩm để tiêu thụ hàng hóa ở các vùng sản xuất tập trung về nông sản, lâm sản, thủy sản;

- Chợ trung tâm các huyện thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn trong Danh mục của Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;

b) Hỗ trợ đầu tư xây dựng chợ biên giới và chợ dân sinh xã của các huyện thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn trong Danh mục của Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ.

Nguồn vốn hỗ trợ đầu tư chợ quy định tại khoản 3 Điều này được ưu tiên đầu tư xây dựng các chợ theo thứ tự sau:

- Chợ đang hoạt động, nằm trong quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng là chợ tạm hoặc chợ có cơ sở vật chất – kỹ thuật xuống cấp nghiêm trọng;

- Chợ xây mới tại những xã chưa có chợ, những nơi có nhu cầu về chợ để phục vụ sản xuất, xuất khẩu và đời sống sinh hoạt của nhân dân.

4. Dự án đầu tư chợ của các thành phần kinh tế được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư như đối với các ngành nghề sản xuất, dịch vụ thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ; được hưởng chính sách ưu đãi về tín dụng đầu tư theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 9 năm 2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ.”

5. Khoản 1 Điều 6 được sửa đổi như sau:

“1. Chủ đầu tư xây dựng chợ mới hoặc sửa chữa lớn, cải tạo, nâng cấp chợ phải lập dự án theo các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng; các quy định về tiêu chuẩn thiết kế các loại hình, cấp độ chợ và được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành.”

6. Điểm a, điểm c khoản 1 và khoản 2, khoản 3 Điều 7 được sửa đổi như sau:

“1. Chợ do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng theo khoản 3 Điều 5 Nghị định này được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao cho các chủ thể tổ chức kinh doanh khai thác và quản lý hoạt động tại chợ theo quy định sau:

a) Đối với chợ xây dựng mới, giao hoặc tổ chức đấu thầu để lựa chọn doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, khai thác quản lý chợ. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, khai thác và quản lý chợ hoạt động theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ;

c) Đối với các chợ ở địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, giao cho các doanh nghiệp hoặc hợp tác xã đủ điều kiện theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để tổ chức kinh doanh, khai thác và quản lý.

2. Đối với chợ do Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng có vốn đóng góp của các hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và tổ chức, cá nhân khác, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền căn cứ mức độ, tỷ lệ góp vốn để lựa chọn chủ thể kinh doanh, khai thác và quản lý chợ (ban quản lý chợ, doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc thành lập công ty cổ phần theo quy định của pháp luật).

3. Chợ do các tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng do các tổ chức, cá nhân, hộ kinh doanh, hợp tác xã, doanh nghiệp đó tổ chức kinh doanh, khai thác và quản lý dưới hình thức doanh nghiệp hoặc hợp tác xã theo quy định của pháp luật và theo các quy định về kinh doanh khai thác và quản lý chợ tại Điều 9 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ.”

7. Bổ sung điểm g, h, i vào khoản 1 Điều 14 như sau:

“1. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành liên quan:

g) Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển chợ trong từng thời kỳ và hướng dẫn, chỉ đạo việc thực hiện.

h) Xây dựng hoặc điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống chợ trên phạm vi toàn quốc;

i) Hướng dẫn và chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng hoặc điều chỉnh quy hoạch phát triển hệ thống chợ, ban hành các quy định cụ thể về phát triển, quản lý và khai thác chợ phù hợp với điều kiện của địa phương.”

8. Khoản 2 Điều 14 được sửa đổi như sau:

“2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Bộ, ngành liên quan:

a) Xem xét, tổng hợp kế hoạch đầu tư xây dựng chợ hàng năm của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để bố trí vốn hỗ trợ đầu tư chợ từ ngân sách trung ương theo quy định của Nghị định này; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định hiện hành;

b) Hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng chợ từ ngân sách nhà nước và chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng chợ theo quy định của Nghị định này.”

9. Khoản 3 Điều 14 được sửa đổi. bổ sung như sau:

“3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ, ngành liên quan:

a) Hướng dẫn cơ chế tài chính áp dụng cho ban quản lý chợ, doanh nghiệp và hợp tác xã kinh doanh quản lý chợ;

b) Hướng dẫn cơ chế tài chính áp dụng cho việc chuyển đổi các ban quản lý chợ (đối với các loại chợ do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư) sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ.”

10. Sửa đổi khoản 4 và bổ sung các khoản 5, 6, 7, 8, 9 và Điều 14 như sau:

“4. Bộ Nội vụ:

Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn chế độ đối với cán bộ, nhân viên thuộc ban quản lý chợ trong biên chế nhà nước khi chuyển sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh quản lý chợ.

5. Bộ Xây dựng:

Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn – thiết kế các loại hình và cấp độ chợ.

6. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành liên quan:

a) Hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch sử dụng đất, dành quỹ đất và sử dụng đất để đầu tư xây dựng chợ;

b) Hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác bảo đảm vệ sinh môi trường tại chợ.

7. Bộ Y tế:

Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm tại chợ.

8. Bộ Công an:

Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác phòng cháy, chữa cháy tại chợ.

9. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam:

Chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các Bộ, ngành liên quan tuyên truyền, phổ biến trong khu vực kinh tế tập thể về pháp luật, chính sách phát triển, quản lý chợ và mô hình hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ hoạt động có hiệu quả.”

11. Bổ sung các điểm e, g, h, i vào khoản 1 Điều 15 như sau:

“e) Ban hành các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm huy động, khai thác các nguồn lực của địa phương, nhất là nguồn lực của các chủ thể sản xuất kinh doanh và nhân dân trên địa bàn để phát triển mạng lưới chợ;

g) Chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng chợ hàng năm phù hợp với quy hoạch phát triển chợ cả nước và của từng địa phương; chủ động bố trí nguồn vốn từ ngân sách địa phương để đầu tư xây dựng chợ theo quy định của Nghị định này, đồng thời sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ đầu tư chợ từ ngân sách trung ương;

h) Chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt kế hoạch chuyển đổi các ban quản lý chợ hạng 1 do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ;

j) Chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật và chính sách về phát triển, quản lý chợ; chỉ đạo thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chợ trên địa bàn tỉnh.”

12. Bổ sung điểm c, d vào khoản 2 và sửa đổi khoản 3 Điều 15 như sau:

“c) Chỉ đạo xây dựng và phê duyệt kế hoạch chuyển đổi các ban quản lý chợ hạng 2, hạng 3 do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ;

d) Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật và chính sách về phát triển, quản lý chợ; đồng thời tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chợ trên địa bàn huyện.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã: có trách nhiệm quản lý và thực hiện các phương án chuyển đổi ban quản lý hoặc tổ quản lý các chợ hạng 3 sang doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh, quản lý chợ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; phối hợp với các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện quản lý các chợ hạng 1 và hạng 2 trên địa bàn.”

13. Sửa đổi từ ngữ:

- Cụm từ “Bộ Công Thương” thay cho cụm từ “Bộ Thương mại”;

- Cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” thay cho cụm từ “Ủy ban nhân dân tỉnh”;

- Cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp huyện” thay cho cụm từ “Ủy ban nhân dân huyện”;

- Cụm từ “Ủy ban nhân dân cấp xã” thay cho cụm từ “Ủy ban nhân dân xã, phường”;

- Cụm từ “hạng chợ” thay cho cụm từ “loại chợ”;

- Cụm từ “chợ hạng” thay cho cụm từ “chợ loại”.

Điều 2. Hiệu lực thi hành

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2010.

Điều 3. Trách nhiệm thi hành

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.



TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng





Tên văn bản : Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ
Loại văn bản : Nghị định
Số hiệu : 114/2009/NĐ-CP
Ngày ban hành : 23/12/2009
Cơ quan ban hành : Chính phủ,
Người ký : Nguyễn Tấn Dũng,
Ngày hiệu lực : 15/02/2010
Văn bản liên quan : 0 NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 63/NQ-CP NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 2009

VỀ ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC QUỐC GIA





Vấn đề an ninh lương thực (bao gồm lương thực, thực phẩm) được Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm, chỉ đạo, nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đã đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật là:

Sản lượng lương thực có hạt tăng bình quân 3,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2008, cao hơn khoảng 3 lần tốc độ gia tăng dân số trong cùng thời kỳ. Sản xuất lúa gạo đã đảm bảo nhu cầu trong nước và xuất khẩu bình quân khoảng 4 – 5 triệu tấn gạo/năm. Sản lượng thực phẩm từ rau màu, quả, sản phẩm chăn nuôi và thủy sản cũng gia tăng đáng kể.

Hệ thống lưu thông lương thực đã có nhiều đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận lương thực. Thị trường nội địa chuyển dần sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Tình trạng suy dinh dưỡng của người dân được cải thiện. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã giảm từ 25% vào năm 2005 đến năm 2008 còn 20%, đạt trước mục tiêu kế hoạch của năm 2010.

Tuy đạt được các thành tựu trên, an ninh lương thực nước ta vẫn còn hạn chế, yếu kém là: sản xuất lương thực, thực phẩm chưa thực sự bền vững; tổ chức sản xuất nông nghiệp chậm được đổi mới, cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ sản xuất còn nhiều yếu kém; quản lý sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu còn bất cập; thu nhập của người sản xuất còn thấp.

An ninh lương thực là vấn đề trọng đại của đất nước trước mắt cũng như lâu dài, để khắc phục hạn chế yếu kém trên đây, Chính phủ ban hành Nghị quyết về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia với nội dung sau:

I. QUAN ĐIỂM

1. Vấn đề an ninh lương thực quốc gia phải nằm trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, gắn với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân là quan trọng, góp phần bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.

2. Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả là cơ sở bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; gắn sản xuất với các hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu lương thực thực phẩm trong mọi tình huống; nâng cao dinh dưỡng, cải thiện chất lượng bữa ăn của nhân dân.

3. Phát huy lợi thế về cây lúa là chính và phát triển lương thực, thực phẩm thành các vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả và sức cạnh tranh cao; đẩy mạnh cơ giới hóa, chế biến, bảo quản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ môi trường bền vững.

4. Tổ chức tốt hệ thống mua, bán và dự trữ ở các vùng miền, tạo thuận lợi cho mọi người dân tiếp cập dễ dàng về lương thực, thực phẩm với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Giải quyết hài hòa giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu lương thực, thực phẩm.

5. Phát huy nguồn lực của nhân dân và các thành phần kinh tế là chính, nhà nước hỗ trợ tích cực trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; bảo đảm thu nhập cho người sản xuất lương thực và tạo điều kiện cho các địa phương thuần nông phát triển.

II. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

Đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 phải đảm bảo đủ nguồn cung cấp lương thực với sản lượng cao hơn tốc độ tăng dân số; chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực, nâng cao chất lượng bữa ăn; bảo đảm cho nông dân sản xuất lúa có lãi bình quân trên 30% so với giá thành sản xuất.

2. Mục tiêu cụ thể

a) Đảm bảo nguồn cung lương thực

Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh sản xuất lúa, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, tạo nguồn cung vững chắc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài.

Đến năm 2020, bảo vệ quỹ đất lúa 3,8 triệu ha để có sản lượng 41 – 43 triệu tấn lúa đáp ứng tổng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm; tăng diện tích trồng ngô lên 1,3 triệu ha, sản lượng 7,5 triệu tấn; diện tích trồng cây ăn quả 1,2 triệu ha, sản lượng 12 triệu tấn; rau các loại 1,2 triệu ha, sản lượng 20 triệu tấn; sản lượng các loại cây màu tăng trên 30%; chăn nuôi đạt sản lượng thịt hơi các loại 8 triệu tấn, sữa tươi 1 triệu tấn, trứng gia cầm 14 tỷ quả; sản lượng khai thác thủy sản 2,4 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng thủy sản 4 triệu tấn.

b) Đảm bảo nhu cầu về dinh dưỡng

Đến năm 2020, cải thiện tình trạng dinh dưỡng hướng tới cân đối dinh dưỡng và nâng cao mức tiêu thụ calo bình quân hàng năm lên 2.600 – 2.700 Kcalo/người và giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn dưới 5%.

Cải thiện cơ cấu và chất lượng tiêu dùng lương thực, đạt mức tiêu thụ bình quân/người vào năm 2020: gạo giảm xuống còn 100kg; thịt các loại 45 kg, cá các loại 30 kg, quả các loại 50 kg, rau các loại 120 kg, tăng mức tiêu dùng trứng, sữa gấp 2 lần so với hiện nay. Toàn bộ nông sản, lương thực tiêu thụ trên thị trường đạt chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm.

c) Đảm bảo khả năng tiếp cận lương thực của người dân

Chấm dứt tình trạng thiếu đói lương thực vào năm 2012. Sau năm 2012 đảm bảo 100% người dân ở mọi nơi, mọi lúc có đủ lương thực.

Đảm bảo thu nhập cho người sản xuất lương thực đến năm 2020 cao hơn 2,5 lần so với hiện nay.

III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Về quy hoạch

a) Quy hoạch chung

Quy hoạch sản xuất lương thực cả nước trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, nước; chú trọng quy hoạch các vùng sản xuất lương thực có sản lượng lớn về lúa gạo, ngô, rau đậu, cây ăn quả, sản phẩm thủy sản và chăn nuôi để đảm bảo thực hiện các mục tiêu về an ninh lương thực quốc gia.

Việc quy hoạch sản xuất lương thực phải đảm bảo cân đối các lĩnh vực để đảm bảo phát triển bền vững và có hiệu quả kinh tế cao; không mâu thuẫn giữa quy hoạch sản xuất nhiên liệu sinh học với quy hoạch sản xuất lương thực.

b) Quy hoạch đất lúa

Quy hoạch đất lúa phải đảm bảo sự thống nhất và phù hợp về quy mô và địa bàn bố trí đất lúa với quy hoạch sử dụng đất trên phạm vi toàn quốc.

Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 diện tích đất lúa cần phải giữ là: 3,8 triệu ha, trong đó: 3,2 triệu ha đất lúa sản xuất hai vụ trở lên, có thủy lợi hoàn chỉnh.

Diện tích đất lúa cần giữ, bảo vệ nghiêm ngặt phải được xác định cụ thể đến từng địa phương (cấp tỉnh, huyện, xã) và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất lúa đến hộ sử dụng.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc quy hoạch chi tiết quỹ đất trồng lúa theo định hướng nêu trên, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào quý II năm 2010.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thống nhất với các Bộ: Công thương, Xây dựng, Giao thông vận tải và Bộ ngành có liên quan xác định nhu cầu sử dụng đất của các ngành, trong đó xác định rõ nhu cầu sử dụng đất từ chuyển đổi đất lúa theo nguyên tắc sử dụng tiết kiệm đất lúa.

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở quy hoạch đất lúa cả nước được phê duyệt, xác định diện tích đất lúa cần giữ trên địa bàn, nhất là đất lúa hai vụ cần được bảo vệ nghiêm ngặt, lập bản đồ sử dụng đất lúa đến cấp xã và hộ sử dụng. Thời gian hoàn thành trong quý IV năm 2011.

2. Về phát triển cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ

a) Phát triển cơ sở hạ tầng

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tập trung chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ:

- Tiếp tục đầu tư, xây dựng mới và tu bổ hệ thống công trình thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho 100% đất lúa hai vụ và tăng diện tích có tưới đối với rau, màu, cây ăn quả. Ưu tiên đầu tư xây dựng công trình thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản; công trình thủy lợi nhỏ ở miền núi.

- Tiếp tục đầu tư nâng cấp và xây dựng mới hệ thống đê điều hiện có; sớm triển khai các dự án đầu tư hệ thống đê biển, bảo vệ sản xuất, tài sản của Nhà nước và nhân dân; chuẩn bị đối phó với tình trạng nước biển dâng.

- Đối với những vùng sản xuất lương thực tập trung, hoàn thiện hệ thống thủy lợi kết hợp với kiến thiết lại đồng ruộng và xây dựng giao thông nội đồng, tạo điều kiện thuận lợi áp dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa.

- Khẩn trương hoàn thành việc đầu tư, xây dựng hệ thống kho dự trữ, bảo quản lương thực ở các vùng sản xuất; đối với lúa gạo đảm bảo năng lực tồn trữ đạt 4 triệu tấn; phát triển các cơ sở chế biến lương thực sử dụng công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng nông sản.

b) Phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ưu tiên phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực sau:

- Tăng cường năng lực cho nghiên cứu khoa học, khuyến nông, thông tin và hợp tác quốc tế liên quan đến an ninh lương thực, ngân sách nhà nước hàng năm đầu tư cho lĩnh vực này tăng 10 – 15%.

- Chọn tạo và sản xuất đủ giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản có năng suất, chất lượng cao, đặc biệt các giống cây trồng có khả năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi như kháng mặn, hạn, chịu ngập, giống cây trồng biến đổi gen để phục vụ nhu cầu sản xuất.

- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến. Đối với cây lúa, thúc đẩy nhanh cơ giới hóa khâu thu hoạch để giảm thất thoát, đến năm 2020 thực hiện thu hoạch bằng máy đạt 50%, trong đó khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 80%, chủ yếu sử dụng máy gặt đập liên hợp có tính năng kỹ thuật cao.

- Xây dựng các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, các vùng sản xuất tập trung áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt (GAP), phát triển kinh tế vườn.

- Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến đối với các cơ sở bảo quản, chế biến.

- Tăng cường đầu tư trang bị phương tiện và công nghệ hiện đại, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá phục vụ đánh bắt có hiệu quả. Quy hoạch, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi, trước hết là thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản; áp dụng rộng rãi các quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo; xây dựng hệ thống thú y thủy sản; kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống, thức ăn, môi trường nuôi; hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Khẩn trương triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng có ảnh hưởng đến an ninh lương thực.

3. Đào tạo nguồn nhân lực

Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động – Thương binh và xã hội, Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu quả Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung:

- Đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ khuyến nông và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh lương thực các cấp; đưa nội dung an ninh lương thực quốc gia vào các trường học.

- Tăng cường đào tạo nông dân về khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý theo phương thức phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực và tăng thu nhập, đến năm 2020 đạt 50% người sản xuất lương thực đã qua đào tạo.

4. Chính sách đối với nông dân, địa phương và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo.

a) Khuyến khích nông dân giữ đất lúa

- Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho người sản xuất lúa gạo, đảm bảo người sản xuất lúa gạo có lãi trên 30% so với giá thành sản xuất.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng nghị định về chính sách quản lý đất lúa, trình Chính phủ trong quý II năm 2010.

- Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ nông dân xây dựng ruộng bậc thang ở miền núi.

b) Khuyến khích địa phương giữ đất lúa

Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng: tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; điều tiết phân bổ ngân sách nhà nước đảm bảo lợi ích giữa các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương thuần nông, nhất là chuyên trồng lúa.

c) Khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ lúa

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương triển khai dự án đầu tư xây dựng kho chứa lúa gạo, đến năm 2012 phải hoàn thành việc đầu tư xây dựng kho chứa 4 triệu tấn đã được quy hoạch. Cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng kho thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.

Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ lúa, gạo do nhà nước giao trong trường hợp giá lúa xuống thấp dưới giá thành, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2009.

d) Chính sách xã hội liên quan đến an ninh lương thực

Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai có hiệu quả các biện pháp kiểm soát tốc độ gia tăng dân số theo Chiến lược dân số Việt Nam.

Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ gạo cho người dân vùng bị thiếu đói do ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai và đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách trợ cấp gạo cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở miền núi trồng rừng thay thế nương rẫy trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý II năm 2010.

5. Hoàn thiện hệ thống lưu thông, xuất khẩu lương thực

Phát triển hệ thống lưu thông lương thực tạo điều kiện mọi người tiêu dùng có khả năng tiếp cận thuận lợi lương thực trong mọi tình huống.

Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất mức hợp lý lượng lúa gạo dự trữ quốc gia và lượng lúa gạo dự trữ lưu thông để đề phòng thiên tai và bình ổn thị trường; sớm hoàn thành đề án bảo hiểm nông nghiệp, trước mắt bảo hiểm sản xuất lúa gạo, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong quý I năm 2010.

Bộ Công Thương chủ trì xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu lương thực, thực phẩm linh hoạt, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu và tiêu thụ hết nông sản lương thực, thực phẩm; kết hợp tốt giữa dự trữ lưu thông và dự trữ nhà nước để bảo đảm yêu cầu cứu trợ lương thực, thực phẩm trong trường hợp khẩn cấp.

Các Tổng công ty Nhà nước có vai trò chủ lực trong việc tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, điều hòa, bình ổn thị trường, cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân khi bị thiên tai.

6. Đổi mới tổ chức sản xuất

Tiếp tục hoàn thiện các loại hình tổ chức sản xuất lương thực theo hướng liên kết nông hộ để hình thành các tổ chức hợp tác, hợp tác xã theo địa bàn hoặc sản phẩm; tạo điều kiện gắn sản xuất với doanh nghiệp tiêu thụ; phát triển kinh tế trang trại, doanh nghiệp sản xuất lương thực, nông dân góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia doanh nghiệp, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ nông nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sớm hoàn thành trình Thủ tướng Chính phủ đề án phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn (trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, khoa học, thương mại, hiệp hội ngành hàng), trước mắt thí điểm triển khai trong sản xuất lúa gạo.

7. Phát triển hệ thống thông tin an ninh lương thực

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

- Kiện toàn và tăng cường hệ thống giám sát, theo dõi diễn biến sản xuất, dự báo sản lượng lương thực đối với cả nước và từng địa phương đến cấp huyện, cảnh báo diễn biến bất lợi thời tiết tác động tới an ninh lương thực để có các giải pháp ứng phó kịp thời có hiệu quả;

- Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo thị trường lương thực trong nước và quốc tế

- Xây dựng cơ sở dữ liệu về an ninh lương thực quốc gia.

8. Hợp tác quốc tế

- Tăng cường hợp tác quốc tế đặc biệt với các lĩnh vực mang tính khu vực và toàn cầu ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia như sử dụng nguồn nước, biến đổi khí hậu, kiểm dịch và vệ sinh động thực vật …; hợp tác về đào tạo nhân lực và phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy thương mại.

- Việt Nam cam kết đóng góp tích cực cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của thế giới.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Bộ Nội vụ nghiên cứu đề xuất việc thành lập Ủy ban an ninh lương thực quốc gia, trình Chính phủ.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức các hoạt động cụ thể, hướng dẫn lập kế hoạch thực hiện, hướng dẫn kiểm tra, giám sát và định kỳ tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện an ninh lương thực quốc gia.

3. Các Bộ, ngành theo chức năng nhiệm vụ triển khai thực hiện các lĩnh vực phụ trách có liên quan đến đảm bảo an ninh lương thực theo nội dung của Nghị quyết này.

4. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển sản xuất lương thực theo ngành trên địa bàn; quản lý chặt chẽ quỹ đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa được quy hoạch; thực hiện tốt các cơ chế, chính sách của Nhà nước về sản xuất, tiêu thụ lương thực, bổ sung cơ chế chính sách của địa phương cho phù hợp với điều kiện thực tế; khuyến khích phát triển sản xuất góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong phạm vi cả nước trong mọi tình huống.



TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng





Tên văn bản : Nghị quyết về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Loại văn bản : Nghị quyết
Số hiệu : 63/NQ-CP
Ngày ban hành : 23/12/2009
Cơ quan ban hành : Chính phủ,
Người ký : Nguyễn Tấn Dũng,
Ngày hiệu lực :
Văn bản liên quan : 0

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét