Hôm nay 8: 00 ngày 15/1/2009 thứ sáu cuối tuần, CŨNG LÀ NGÀY MỘT THÁNG CHẠP Kỷ Sửu, mình làm lễ ở 15 PĐC, Tháp vào cụ Ba. Bầm sinh hoạt bình thường bây giờ ngồi nhìn ra ngõ chơi cùng MIC, hôm qua sang UBND xem cầu không chơi vì còn rượu...Quang sang lấy KD cho con KD mua bán máy VT, nói chuyện bài thơ gửi Châu nhân Luật sư...
15/01/2010 - 12:02 AM
Khi tòa ngâm đơn khởi kiện
Theo luật, trong thời hạn năm ngày làm việc từ ngày nhận được đơn khởi kiện, tòa phải ra quyết định thụ lý hay không.
Quy định là vậy nhưng thực tế nhiều đương sự phải trầy vi tróc vảy khi nộp đơn khởi kiện bởi sự tắc trách, thiếu nhiệt tình của một số cán bộ tòa.
Có lẽ chính các đương sự bị rơi vào tình cảnh này mới thấm thía được nỗi vất vả như thế nào ngay từ lúc gõ cửa nhờ tòa phân xử tranh chấp, bảo vệ quyền lợi cho mình.
Từ ngâm ít tháng
Ngày 3-9-2009, ông Y. đã nộp đơn kiện ra TAND huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai) để yêu cầu người hàng xóm trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mãi đến ngày 26-11-2009 (gần ba tháng sau khi nộp đơn kiện), TAND huyện Vĩnh Cửu mới ra thông báo trả lại đơn kiện cho ông Y. với lý do vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa.
Tương tự, đầu tháng 4-2009, bà H. ở Thủ Đức nộp đơn khởi kiện đến TAND huyện Đức Cơ (Gia Lai) để đòi lại con nuôi từ bà ngoại cháu bé. Sau khi nộp đơn, bà H. chờ mãi vẫn không thấy tòa trả lời nên phải nhiều lần đi lại từ TP.HCM đến huyện Đức Cơ để hỏi thăm. Mãi đến cuối tháng 5-2009 (một tháng sau), TAND huyện Đức Cơ mới ra thông báo trả lại đơn kiện cho bà H. với lý do vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết.
Ðến kéo rê hàng năm
Một vụ vi phạm thời hạn xem xét đơn kiện khác có tính chất nghiêm trọng hơn đã xảy ra tại TAND huyện Đức Hòa (Long An).
Ngày 18-1-2006, ông T. làm đơn kiện ba người hàng xóm ra TAND huyện Đức Hòa để yêu cầu mở đường thoát nước. Sau khi tiếp nhận đơn, ngày 6-3-2006, TAND huyện Đức Hòa có công văn yêu cầu ông T. bổ sung thêm chứng cứ. Tòa án huyện này cũng hạn cho ông T. trong thời gian 20 ngày phải cung cấp đầy đủ chứng cứ mới thụ lý đơn kiện, nếu không tòa sẽ trả lại đơn kiện.
Ngay sau đó, ông T. nộp đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho tòa đúng thời hạn luật định nhưng hơn ba năm sau, ông T. vẫn không hề nhận được bất kỳ quyết định hay thông báo giải quyết tiếp theo của TAND huyện Đức Hòa. Chỉ đến khi ông T. và người hàng xóm đánh nhau vì tranh chấp mương nước thì tòa mới cử người xuống xác minh lại vụ việc.
Chuyển đơn lòng vòng
Ông H. ngụ quận Bình Thạnh (TP.HCM) đã từng phải mất một năm mới nộp được đơn kiện trong một vụ tranh chấp về mua bán nhà.
Năm 2005, ông H. khởi kiện tại TAND quận Bình Thạnh nhưng tòa này trả lời không thuộc thẩm quyền vì phía bị đơn có hộ khẩu thường trú ở quận Gò Vấp. Ông nộp đơn ra TAND quận Gò Vấp, được tòa này nhận đơn. Sau khi biết bị đơn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Gò Vấp nhưng thực tế đang sinh sống tại quận 3, tòa này lại chuyển vụ kiện tới TAND quận 3.
Tòa quận 3 lại cho rằng vụ việc không thuộc thẩm quyền mình nên chuyển trả ngược hồ sơ cho TAND quận Gò Vấp. Năm 2006, TAND quận Gò Vấp một lần nữa làm thủ tục chuyển hồ sơ đến TAND quận Bình Thạnh và lần này thì TAND quận Bình Thạnh mới chịu thụ lý hồ sơ…
“Giá mà tôi được hướng dẫn kỹ hơn”!
Tháng 10-2002, bà K. nộp đơn kiện chia di sản thừa kế ra TAND quận 9 (TP.HCM). Gần ba tháng sau, bà mới được tòa gửi giấy nộp tạm ứng án phí kèm theo yêu cầu đóng tiền trong vòng một tháng. Do tiền tạm ứng khá lớn, bà chưa gom đủ nên tòa hướng dẫn khi nào có tiền thì nộp đơn khởi kiện lại.
Tháng 3-2003, bà K. kiện lại. Sau một tháng, tòa cấp giấy nộp tạm ứng án phí và bà đóng tiền ngay để tòa thụ lý nhưng sau đó, tòa ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (theo luật, thời hiệu khởi kiện về thừa kế là trong vòng 10 năm kể từ ngày mở thừa kế).
Điều làm bà K. ấm ức là bà chỉ bị chậm đúng tám ngày (tính đến thời điểm tòa thụ lý). Bà than thở: “Tôi đâu có rành rẽ pháp luật. Giá như ngay từ đầu cán bộ tòa chịu khó hướng dẫn cho tôi biết phải cố gắng nộp tiền tạm ứng án phí sớm, nếu không sẽ hết hạn khởi kiện thì tôi đâu có bị lỡ làng như vầy”!
————————————————————————————
Chậm vì mời qua bưu điện?
“Do ông Y. nộp đơn kiện qua đường bưu điện nhưng hồ sơ chưa đầy đủ nên chúng tôi phải mời đương sự đến tòa làm việc bằng đường bưu điện. Vì thế, việc xem xét trả lời đơn phải mất thêm nhiều ngày”.
Lãnh đạo TAND huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai)
Chậm vì phức tạp?
“Đúng là chúng tôi có vi phạm tố tụng về thời hạn xem xét đơn kiện của bà H. Thật ra do vụ việc này quá phức tạp nên chúng tôi cần nhiều thời gian để tìm hiểu có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa hay không”...
Lãnh đạo TAND huyện Đức Cơ (Gia Lai)
Không thể viện lý do!
Luật đã quy định rất rõ thời hạn giải quyết đơn kiện nên tòa không thể lấy bất cứ lý do gì để trì hoãn việc chậm giải quyết đơn kiện của dân. Nếu người dân nộp đơn mà chưa đầy đủ thì tòa yêu cầu bổ sung ngay, nếu họ không bổ sung thì trả lại đơn kiện. Nếu tòa nào nói không xác định được vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa hay không thì rõ ràng nghiệp vụ còn yếu bởi Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn đã quy định rất rõ những vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa rồi. Tòa nào không thực hiện đúng thì rõ ràng đã vi phạm tố tụng. Việc không ra quyết định trả lời đơn cho dân đúng qui định tưởng chừng nhỏ nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người dân.
Thẩm phán Lê Thành Văn (Phó Chánh án TAND tỉnh Đồng Nai)
Hãy làm đúng luật
Không phải người dân nào cũng rành rẽ pháp luật để đi khiếu nại vi phạm của tòa về thời gian xem xét đơn khởi kiện. Luật quy định đã khá rõ về việc trả lời đơn kiện của dân. Tòa không thực hiện đúng quy định trên mà để người dân phải chờ đợi, đi lại nhiều lần, mất công mất sức là không được. Tòa không thể nói do vụ việc phức tạp hay vì công việc quá nhiều mà làm sai luật được.
Luật sư Trần Công Ly Tao (Đoàn Luật sư TP.HCM
V.ÐOÀN - T.TÙNG
Đẩy nhanh tiến độ GPMB các dự án, công trình trọng điểm, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo:
Không chấp nhận cách làm việc quan liêu, máy móc
15/01/2010 06:54
* Dự án mở rộng QL 32 phải GPMB xong trong tháng 11-2009, đến nay vẫn ách tắc
* Trong 56 dự án các công trình chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, mới có 23 dự án hoàn thành toàn bộ việc GPMB
(HNM) - Tại buổi họp nghe báo cáo về công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) các công trình trọng điểm và các dự án phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội tổ chức ngày 14-1, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo chỉ đạo: Phải coi công tác GPMB là khâu đột phá.
(HNM) - Tại buổi họp nghe báo cáo về công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) các công trình trọng điểm và các dự án phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội tổ chức ngày 14-1, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo chỉ đạo: Phải coi công tác GPMB là khâu đột phá. Chủ tịch UBND TP nhấn mạnh: Để làm được điều này, các sở, ngành, quận, huyện cũng như chủ đầu tư phải chủ động, linh hoạt và phối hợp với nhau chặt chẽ hơn nữa. Trong quá trình GPMB phải kiên trì vận động, thuyết phục, tuy nhiên với những trường hợp cố tình chây ỳ, chống đối phải có biện pháp xử lý nghiêm nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Đẩy nhanh tiến độ GPMB là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thành phố trong những tháng đầu năm 2010. Ảnh: Đàm Duy
Nhiều dự án trọng điểm vẫn ách tắc vì vướng mặt bằng
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo GPMB TP, đến hết tháng 12-2009, trong tổng số 56 dự án, công trình trong danh mục các công trình chào mừng 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, đã có 23 dự án hoàn thành GPMB; 18 dự án hoàn thành bàn giao một phần diện tích theo phân kỳ đầu tư. Một số dự án đã hoàn thành trước Đại lễ như cầu Vĩnh Tuy, đường Lạc Long Quân, cầu Thanh Trì, Bảo tàng Hà Nội, Trung tâm Đào tạo vận động viên cấp cao, Công viên Hòa Bình, chợ Nghệ - Sơn Tây… Đối với các công trình trọng điểm khác của Chính phủ và TP, đã có 10 dự án xong GPMB và bàn giao một phần theo phân kỳ đầu tư, với tổng diện tích đất đã bàn giao là 229,9ha, đáp ứng tiến độ theo yêu cầu như: Trường Cao đẳng Nghề Việt - Hàn, đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, quốc lộ 3 (Hà Nội - Thái Nguyên)…
Ông Nguyễn Đức Biền, Trưởng ban Chỉ đạo GPMB TP cho biết, các dự án vướng mắc nhất về GPMB phải kể đến cầu Nhật Tân, Nhà ga hành khách T2 Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài, đường nối cầu Nhật Tân đến Nhà ga T2, đường Văn Cao - Hồ Tây, đường Lê Văn Lương kéo dài, đường 32, đường Láng - Hòa Lạc… Vướng mắc chung tại một số dự án là vấn đề cơ chế, chính sách đền bù, hỗ trợ GPMB thay đổi đã ảnh hưởng tới tiến độ. Một số dự án khác vướng do chưa có quỹ nhà tái định cư. Song cũng phải nói rằng, tiến độ lập, phê duyệt phương án GPMB của một số quận, huyện còn chậm. Như dự án mở rộng đường 32 đoạn Mai Dịch - Cầu Diễn chỉ còn tồn tại 0,6ha đất (liên quan đến 75 kiốt và 116 hộ đất ở). Mặc dù TP đã chỉ đạo UBND quận Cầu Giấy phải GPMB xong trong tháng 11-2009 nhưng đến nay vẫn tắc. Đây cũng là tình trạng chung tại không ít địa phương. Do đó, TP yêu cầu các quận, huyện và đơn vị liên quan đẩy nhanh tiến độ GPMB phục vụ thi công.
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường cho rằng, tiến độ triển khai các dự án giao thông do Bộ làm chủ đầu tư trên địa bàn TP chậm tiến độ có nguyên nhân một phần từ ách tắc trong khâu GPMB. Có những dự án đã lên kế hoạch khởi công nhưng phải lùi lại vì không có mặt bằng. Bộ GTVT đề nghị Hà Nội tập trung quyết liệt cho công tác này.
Tập trung đẩy nhanh tiến độ GPMB
Thừa nhận công tác GPMB một số dự án chưa đạt yêu cầu tiến độ, song cũng có ý kiến cho rằng, không ít chủ đầu tư (trong đó có các đơn vị trực thuộc Bộ GTVT) còn chưa làm tốt trách nhiệm trong công tác bồi thường, GPMB sau khi được Nhà nước giao đất để thực hiện các công trình trọng điểm; chưa chủ động phối hợp với chính quyền địa phương; có dự án đã được bàn giao mặt bằng từ lâu nhưng thi công chậm, gây bức xúc trong dư luận.
Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng Khanh nhấn mạnh: Cần nghiêm túc nhìn nhận, tại một số dự án, sự phối hợp giữa các sở, ngành với chính quyền địa phương còn chưa tốt. Ngay cả cung cách phối hợp giữa phường với quận, giữa xã với huyện còn lỏng lẻo, dẫn tới khâu điều tra, lên phương án đền bù, GPMB chậm. Hạn chế này cần sớm được chấn chỉnh.
Kết luận buổi làm việc, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo khẳng định: Công tác bồi thường, GPMB là đặc biệt quan trọng. Các sở, ngành, quận, huyện và chủ đầu tư phải coi đó là khâu đột phá, tạo tiền đề để phát triển hạ tầng giao thông đô thị và là động lực cho phát triển KT-XH của Thủ đô. Đây là công việc rất khó khăn và ngày càng phức tạp. Thời gian qua, Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong công tác GPMB, tạo quỹ đất cho phát triển giao thông, đô thị. Tuy nhiên, công tác GPMB tại một số nơi còn chưa đạt yêu cầu, làm ảnh hưởng tới tiến độ chung toàn dự án. Đặc biệt là tại các dự án phục vụ Đại lễ, công trình trọng điểm của quốc gia và TP. Nguyên nhân cơ bản là cơ chế, chính sách liên quan còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Nhiều văn bản sau khi ban hành chưa kịp đi vào cuộc sống đã lại thay đổi. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân bị thu hồi đất còn chưa đúng, chưa tốt. Bên cạnh đó, không ít địa phương và các chủ đầu tư trong quá trình thực thi nhiệm vụ còn thiếu chủ động, thậm chí máy móc, quan liêu… Những điều này đã trở thành rào cản cho quá trình triển khai các công trình, dự án. Do đó, thời gian tới, nhiệm vụ trọng tâm của các sở, ngành, quận, huyện và chủ đầu tư là phải tập trung đẩy nhanh tiến độ GPMB, nhất là với các dự án hạ tầng giao thông phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1000 năm và công trình trọng điểm của quốc gia, TP. Thời gian đến ngày Đại lễ không còn nhiều, vì vậy, các cơ quan liên quan phải bám sát tiến độ để có giải pháp tháo gỡ kịp thời. Về quỹ nhà tái định cư, TP giao Sở Xây dựng khẩn trương tập trung đầu tư xây dựng, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu GPMB.
Bên cạnh đó, cần có chế độ bảo trì, bảo dưỡng quỹ nhà tạm cư để phục vụ người dân, tránh để tình trạng đưa dân về tạm cư nhưng lại thiếu điện, thiếu nước.
Chủ tịch UBND TP cũng lưu ý các cơ quan trong quá trình thực thi nhiệm vụ, khi giải quyết các thủ tục phải đúng luật nhưng cũng cần linh hoạt, thông thoáng; phải công khai, minh bạch, thực hiện đúng cơ chế dân chủ ở cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân để có biện pháp tháo gỡ kịp thời.
15/01/2010 - 12:03 AM
Xử vụ Đề án 112: Nhân viên tố cáo sếp nói dối
Tổng Công ty Sách Việt Nam chiết khấu 30% giá trị hợp đồng in ấn để ngoài sổ sách cho ban điều hành Đề án 112.
Ngày 14-1, tòa đã tập trung thẩm vấn để làm rõ hành vi của các bị cáo tham gia việc ký kết, thực hiện hợp đồng in ấn giữa ban điều hành Đề án 112 với Tổng Công ty Sách Việt Nam.
Chiết khấu 30% không đưa vào sổ sách
Theo công tố viên, trong hai năm 2004-2005, Tổng Công ty Sách (thuộc Bộ Văn hóa-Thông tin, nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) đã ký 13 hợp đồng cung cấp sách có tổng giá trị hơn 2,3 tỉ đồng với ban điều hành Đề án 112.
Những hợp đồng trên trái với quy định về đấu thầu và chào hàng cạnh tranh như không có kế hoạch đấu thầu được phê duyệt; việc chỉ định thầu cũng như chào hàng cạnh tranh không đúng quy định, gây thiệt hại hơn 1 tỉ đồng.
Để có được hợp đồng, nguyên phó phòng Kinh doanh sách quốc văn của Tổng Công ty Sách Ngô Thị Nhâm đã đề nghị nguyên ủy viên thư ký ban điều hành Đề án 112 Lương Cao Sơn (anh rể) cho Tổng Công ty Sách được thực hiện việc in ấn sách. Bị cáo Nhâm có trách nhiệm chiết khấu 30% giá trị của hợp đồng cho ban điều hành Đề án 112 nhưng không ghi vào hợp đồng và không có ký nhận...
Các bị cáo tại phiên xử.
“Làm sai vì lợi ích tập thể”?
Khi chủ tọa hỏi bị cáo Nhâm về việc có ai trong ban điều hành Đề án112 gợi ý, yêu cầu chiết khấu 30% giá trị hợp đồng, bị cáo Nhâm đã nhận mình là người chủ động đưa ra con số đó theo thông lệ của các hợp đồng in ấn, phát hành sách. Việc này đã có báo cáo và được sự đồng ý của ban giám đốc Tổng Công ty Sách.
“Tôi biết Đề án 112 qua nhiều phương tiện như Internet, báo chí. Sau khi tôi sang gặp anh Sơn để thương thảo về hợp đồng thì có về báo cáo trưởng phòng. Trong 13 hợp đồng đã ký, anh Sơn không hề đặt vấn đề về chiết khấu mà do tôi chủ động định vậy theo thông lệ”.
Nguyên trưởng phòng Kinh doanh sách quốc văn Nguyễn Thị Phương Hoa khai về nguyên tắc, khoản chiết khấu 30% Tổng Công ty Sách không bắt buộc phải trả cho ban điều hành Đề án 112. “Mới đầu tôi cũng không nghĩ tiền nhiều như thế nhưng sau đó thấy lên tới hơn 700 triệu đồng. Tiền này không qua hệ thống sổ sách kế toán, chỉ được ghi vào sổ cá nhân và chỉ tôi cùng Nhâm biết”.
Bị cáo Hoa thừa nhận hành vi nâng giá sách lên là sai nhưng vì lợi ích của tổng công ty nên vẫn phải làm. “Tôi thấy việc này không được hợp pháp nên đã báo cáo và được sự chấp thuận của ban giám đốc. Tôi có báo cáo là hợp đồng này mang lại lợi nhuận cho tổng công ty nhưng gặp phải khó khăn vì mức chiết khấu 30% mà không được ký nhận gì. Sau đó tôi giao nhân viên đi liên hệ các đơn vị in sách”.
Lại “ký nhưng không xem”
Trái với lời khai của hai bị cáo Nhâm và Hoa, nguyên tổng giám đốc Tổng Công ty Sách Trần Tấn Ngô lại cho rằng ban giám đốc không hề biết về nội dung hợp đồng và mức chiết khấu 30% của 13 hợp đồng trên.
Bị cáo lý giải: Tổng Công ty Sách có quy chế khoán với các phòng ban. Theo đó, các phòng ban phải tự hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính, tài sản của công ty, khi ký hợp đồng phải tuân thủ theo pháp luật… Nội dung của hợp đồng kinh doanh của các phòng ban theo cơ chế khoán không phải báo cáo với ban giám đốc mà chỉ cần đảm bảo theo đúng quy định.
“Vì tổng công ty đã giao khoán rồi nên khi dưới phòng trình lên, bị cáo chỉ ký để hợp thức hóa chứ không xem rõ hợp đồng. Bị cáo có nhận tiền nhiều lần vào dịp lễ, tết nên bị cáo không nhớ nhưng khi cơ quan điều tra nói bị cáo mới biết là 17 triệu đồng. Vì đã giao khoán rồi nên các phòng ban có bao thơ ngày lễ, tết cho lãnh đạo là bình thường” - bị cáo Ngô biện hộ.
Nguyên phó tổng giám đốc Tổng Công ty Sách Nguyễn Thị Minh Thiệu lớn tiếng gay gắt: “Nhân viên không hề báo cáo nội dung hợp đồng này với tôi”. Tuy nhiên, các bị cáo thuộc cấp lại một lần nữa khẳng định trước tòa: “Khi thực hiện hợp đồng, chúng tôi đã được sự đồng ý của ban giám đốc. Chị Thiệu nói dối”.
Trái luật!
Theo quy định, phần chiết khấu phải được đưa vào trong nội dung của hợp đồng. Trong trường hợp này, các bị cáo ký hợp đồng với nhiều công ty khác để gửi giá và hợp thức hóa phần chiết khấu để ngoài sổ sách là trái luật.
Ngoài ra, quy chế khoán chỉ mang tính chất nội bộ của Tổng Công ty Sách. Về nguyên tắc, ban giám đốc khi đã ký vào các hợp đồng thì vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Luật sư Nguyễn Văn Tú (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư
tỉnh Bắc Giang)
THANH TÚ
Đông Á, Tây Âu hai văn minh có thể dung hòa được không?
Phạm Quỳnh
Phạm Quỳnh-Luận giải văn học và triết học/ Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây
09:20' AM - Thứ tư, 13/01/2010
Chúng ta bây giờ như đương đứng vào chỗ giáp giới hai cái văn minh, văn minh Đông Á và văn minh Tây Âu, một cái thì cũ kĩ mà là vốn có của ta, bỏ đi không nỡ, một cái thì mới mẻ nhưng tự ngoài đem lại, thâu lấy cũng khó; nên nhiều người còn phân vân không biết nên bỏ hẳn cũ mà theo mới, hay là có cách nào dung hòa mới cũ cho được thỏa đáng hơn. Ở đời theo thời, lẽ sinh tồn xưa nay như thế, bây giờ cả thế giới xu hướng về đường văn minh mới, thế tất phải hăng hái bước lên cho theo kịp người; nhưng theo mới mà bỏ hẳn cũ thời cái lòng hoài cổ của người ta không khỏi áy náy, lòng người còn áy náy thì chưa gọi là tiến bộ được. Duy có cách dung hòa mới cũ cho vẹn cả hai là có lẽ hay hơn. Ấy phần nhiều người biết nghĩ bây giờ ai cũng nghĩ như vậy. Song sự dung hòa ấy có thể làm được không?- Người mình có thể kén chọn trong hai văn minh cái gì hay thì lấy, cái gì dở thì bỏ, để bắt chước lấy những phương thuật khéo, máy móc tài của Thái Tây, mà vẫn giữ được cái tinh thần cũ, luân lí xưa của nòi giống? Văn minh có thể phân tách ra từng phần mà chọn, hay là một khối hồn nhiên, muốn theo phải theo cả, muốn bỏ phải bỏ hết? Vấn đề ấy hiện nay chưa giải quyết được, và trong nước ta đương bây giờ phái cấp tiến vẫn nóng nẩy bỏ hết cũ để theo mới, mà phái bảo thủ thì còn dùng dằng muốn giữ lấy nền nếp xưa.
Bác sĩ Dickinson nước Mĩ đã từng nghiên cứu về vấn đề ấy. Tiên sinh đi du lịch Á Đông về có làm bài du kí, kết luận đại khái nói rằng hai văn minh Âu, Á mới xét tưởng có thể dung hòa làm một, nhưng kì thực không thể mượn lẫn nhau được; văn minh Âu châu chuộng vật chất, văn minh Á châu chuộng tinh thần, nhưng vật chất của Âu châu không thể điểm thêm tinh thần của Á châu, và tinh thần Á châu cũng không thể pha lẫn vật chất của Âu châu được; đời nay vật chất thịnh hành, Á châu thế tất phải theo Âu châu, mà đã theo thời phải theo đến cùng, còn Âu châu đã đem cái vật chất đến cực điểm tất có ngày sẽ trở về đường tinh thần, nhưng là tự lực trở về, chứ không mong châm chước với cái tinh thần của Á châu được ý kiến mới lạ, và cứ xét cách tiên sinh lí luận thì cũng không phải là không có lẽ. Vậy xin dịch ra đoạn kết luận bài du kí của tiên sinh như sau này, để giúp thêm một “luận điệu mới cho các học giả nước nhà muốn thử giải quyết cái vấn đề Âu-Á.
Đông Á với Tây Âu
“Không biết vì những duyên cớ gì, ví có thể giải được thì hay lắm, mà Đông Á đã chậm kém Tây Âu về cái phần máy móc của đời người, cùng những cách ra công, dụng sức để cho thông tỏ và sai khiến được máy móc ấy. Thái Tây dẫu không phải đã phát minh ra cách trí cũng là đã biết đem các khoa cách trí ứng dụng ra việc đời; vì thế mà giúp cho sự sinh hoạt về phần vật chất được sướng tiện hơn xưa nhiều lắm, không những giúp cho kẻ có của, cái đó đã cố nhiên rồi, mà suy xét cho kĩ, có lẽ người nghèo cũng được nhờ. Thái Tây đã tìm được cách cho một số người có kế sinh hoạt được dễ dàng; nhưng cũng lại làm cho cái vẻ phong thú của đời người hầu mất hết, làm cho cái trí quan niệm sâu xa tiêu mòn đi hết. Ở các nước Thái Tây bây giờ, dễ không có gì danh giá bằng làm một nhà doanh nghiệp, nghĩa là kinh doanh nghề nghiệp để cầu lợi lộc cho mình; không gì danh giá bằng mưu tính sự sinh hoạt thế nào cho hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp khiến được đời mình thêm sung sướng tiện lợi, bớt phiền nhiễu lôi thôi. Thứ nhất là ở những dân những nước tân tạo (như nước Mĩ), chưa có văn hiến, chưa có cổ điển gì, lại càng rõ rệt lắm; nhưng mà chính ở Âu châu là nơi có cổ điển, có văn hiến, dần dần rồi cũng thế. Về phần riêng tôi không phải rằng tôi cho cái thái độ đó là tiện thị, đáng khinh bỉ đâu, và quyết rằng Thái Tây chỉ biết tôn cái “vật chất chủ nghĩa” mà thôi. Tôi vẫn tin rằng tựu trung có một cái tư trào lớn đương tiến lên, tuy chưa phát ra mà cứ bình tĩnh xét có thể gọi là một tư trào thuộc về tinh thần được. Thái Tây thực cũng có công về đường tinh thần, chứ không phải không: Thái Tây cố làm tăng cao trình độ sinh hoạt về đường vật chất để cho người ta được thêm nhàn hạ, thêm giáo dục, thêm tư cách, và thêm có dịp nghiên tinh đàn tứ mà suy xét ngẫm nghĩ về sự đời, đó là phần cốt yếu của sự văn hóa vậy. Thấy rằng Thái Tây chuyên trọng phần vật chất ở đời mà quyết đoán rằng Thái Tây chỉ biết tôn cái “vật chất chủ nghĩa”, thì chưa chắc đã là phải; Thái Tây chuyên trọng phần vật chất mà sự sinh hoạt phải mạnh bạo, não lực nghị lực phải dùng nhiều, thật cổ lai tâm trí người ta chưa từng có hoạt động như thế bao giờ.
“Tuy vậy mà sự sinh hoạt của ta vội vàng hấp tấp quá, sự cạnh tranh thiên hình vạn trạng, hết thảy đều mạnh bạo khó nhọc mà sức thần kinh phải dụng nhiều, thành ra tâm não không được điều hòa mà nên quyết liệt. Như ở Đông phương thời xưa nay sự sinh hoạt không có bao giờ cương cường như vậy. Đông phương vẫn giữ được sự hành động với sự quan niệm hai bên điều hòa nhau. Tôi tưởng có điều hòa như vậy mới gọi là văn minh. Sự điều hòa ấy, Thái Tây phải hồi phục lấy mới được, về trước kia tôi vẫn nghĩ rằng Đông phương có thể giúp cho Tây phương phục hồi được. Tôi vẫn nghĩ rằng hai văn minh của Đông phương và Tây phương đều có khuyết điểm cả, muốn dung hòa lại làm một cho bao gồm được cả nhân loại, thời hai bên phải học lẫn mượn lẫn của nhau mới được. Từ ngày đi du lịch ở Đông phương thì tôi không dám quyết như thế nữa. Tôi xét ra văn minh là một cái “toàn thể”. Mĩ thuật, tôn giáo cùng những thói cách ăn ở đều có liên hệ với sự phát đạt về đường kinh tế, đường nghệ thuật. Tôi không dám chắc rằng một dân một nước có thể châm chước mà chọn lọc được; không dám chắc rằng người Đông phương có thể nói rằng: “Ta bắt chước Thái Tây những cách làm tàu trận, lập xưởng máy, thuật trị bệnh; ta không bắt chước những sự hỗn độn trong xã hội, sự vội vàng hấp tấp, sự thô bỉ nhọc nhằn, ta không bắt chước mà quá trọng sự hoạt động như người Tây”. Cũng không dám chắc rằng người Tây phương có thể nói: “Ta mượn cái tinh thần của Ấn Độ về tôn giáo, về tư tưởng; nhưng ta cứ giữ lấy cái hơn cái khéo của ta trong nghề nghiệp, ta cứ giữ lấy những chế độ dân chủ của ta, những khoa học thuyết lí và ứng dụng của ta”. Tây phương có thể trông gương Đông phương mà tự khích lệ, không thể bắt chước Đông phương được; mà Đông phương thì đã mượn Tây phương các nghệ thuật, thế tất rồi phải mượn hết thảy. Vậy thời tôi thiết tưởng Tây phương rồi cũng có ngày tự chấn chỉnh lại cho được điều hòa, không phải là trực tiếp thâu nhập cái tinh thần của Đông phương đâu, nhưng là tự mình chấn chỉnh, vì đã lạm dụng sức hoạt động quá, thế nào rồi cũng phải tỉnh ngộ. Tôi thiết nghĩ như thế mà tôi lại dám dự đoán rằng Đông phương rồi sẽ theo ta mà cũng làm quá độ như ta, dù muốn hay dù không muốn mặc lòng, đã tấn tới lên trình độ cao hơn thì rồi cũng phải qua bấy nhiêu bước khó khăn như ta đã qua, không có đường nào đi tắt mà mong tránh được.
Nói tóm lại thời tôi tưởng rằng mĩ thuật, tư tưởng, tôn giáo ở Tây Phương rồi có ngày phục hưng, mà là tự sức tinh thần của mình phấn phát mà hưng khởi lên, còn Đông phương thời cái tinh thần cũ sẽ mất hết mà hưng khởi lên, rồi cũng tôn sùng cái “vật chất chủ nghĩa” như Tây phương, kì cho đến ngày có thể tự mình phát minh được một tinh thần mới vậy”.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH NÓI VỀ ĐẢNG
TC xaydungdang
TNc: Mấy năm nay toàn dân toàn Đảng chúng ta học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ. Phong trào có một số kết quả nhưng soi vào đời sống xã hội hôm nay chúng ta vẫn thấy nhiều việc không làm theo được lời Bác dạy. TNc đưa lại một số lời dạy của Người để Đảng ta, Dân ta soi mình...Nếu chúng ta không thực hiện tốt sẽ mắc vào bệnh nói rất hay làm rất dở...
Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng. Ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, cán bộ và đảng viên phải một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phải là người đày tớ hết sức trung thành của nhân dân.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 10, tr.337.
Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng.
Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa.
Sách đã dẫn (Sđd), tập 5, tr.261.
Đảng cũng ở trong xã hội. Đảng là do nhiều người cách mạng họp lại, cho nên dù với sự rèn luyện theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng có nhiều ưu điểm, nhưng cũng không tránh khỏi khuyết điểm. Khi có khuyết điểm, Đảng hoan nghênh phê bình, thật thà tự phê bình và kiên quyết sửa chữa. Vì vậy, Đảng ngày càng tiến bộ, càng mạnh mẽ.
Sđd, tập 8, tr.279.
Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể có những phần tử lạc hậu và đầu cơ.
Sđd, tập 7, tr.230.
Đảng ta phải rất mạnh, phải phát triển không ngừng, nhưng phải nhiều về số lượng đồng thời phải có chất lượng tốt mới làm tròn được nhiệm vụ lãnh đạo.
Sđd, tập 8, tr.516.
Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho các đảng viên. Phải giúp đỡ cán bộ không đảng phái nâng cao trình độ.
Sđd, tập 3, tr.139.
Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước
Nguồn:
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/
2009/1646/Chu-tich-Ho-Chi-Minh-noi-ve-Dang.aspx
Thứ sáu ngày 15/1/2010
THƯỜNG TRỰC BBT: DÂN CHỦ LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Theo TVN
Cập nhật lúc 00:30, Thứ Năm, 14/01/2010 (GMT+7)
Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang cho rằng một số cấp ủy, chính quyền chưa thấy hết vai trò của cơ chế dân chủ trực tiếp của nhân dân tại cơ sở...
Ông Trương Tấn Sang phát biểu chiều 13/1 tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đòi hỏi bức thiết
Thường trực Ban Bí thư nhận định: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế, chưa thấy hết vai trò quan trọng của cơ chế dân chủ trực tiếp của nhân dân tại cơ sở cùng với cơ chế dân chủ đại diện hợp thành chế độ dân chủ XHCN ở nước ta, đó là mục tiêu và là động lực phát triển đất nước.
Nguồn:
http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Thuong-truc-BBT-Dan-chu-la-dong-luc-phat-trien-dat-nuoc-889425/
CÂU NÓI HAY NHẤT TRONG TUẦN
tintucvina.com/?news=157727
Thủ tướng cho rằng: Mọi hành vi bắt nạt nước khác đã lỗi thời. Bất kỳ quốc gia nào muốn đứng trên bắt nạt dân tộc khác thì thời đại này cũng khó thực hiện được và không có lợi cho bất kỳ ai.
Đã đến lúc tất các các quốc gia dân tộc, dù nhỏ hay lớn, phải thực hiện hòa bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển, để mang lại lợi ích lớn nhất cho toàn thế giới và cho mỗi nước. Đã đến lúc tất cả các dân tộc trên thế giới phải chung sức cùng nhau đối phó với các vấn đề chung toàn cầu: biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo..., người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh.
Trích bài tường thuật buổi TT Nguyễn Tấn Dung gặp GS Joseph Nye
http://tintucvina.com/?news=157727
[ Quay lại ]
Tuấn Lương LỜI KHUYÊN NGHE CHÍ LÝ NHẤT TRONG TUẦN
Theo VNN.VN
GS Joseph Nye: Lời khuyên của tôi trong hai năm trước khi trực tuyến trên VietNamNet vẫn còn nguyên giá trị. Thế giới ngưỡng mộ Việt Nam về tinh thần độc lập dân tộc và phát triển kinh tế nhanh chóng. Điều tôi muốn nói thêm là Việt Nam cần tăng tự do phát ngôn và tính phản biện trong nước hơn nữa, về đối ngoại, nên quan hệ chặt chẽ với các quốc gia khác nhất là khối ASEAN. Đó là cách tăng sức mạnh mềm.
(Trích bài trả lời trực tuyến trên VietNamNet)
http://tuanvietnam.net/2010-01-12-chu-nghia-dan-toc-lanh-manh-la-diem-tua-cua-vn-
Thứ 4 ngày 13/1/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét