Hôm nay ngày 11/3/2010 thứ năm Long – Toàn từ HN lên đặt 50 bánh tẻ, bà trẻ Tháp tặng thêm vài Kg khoai lang nướng của nhà Mai vào 9:30 AM, mình giặt giũ nhân một ngày đẹp trời, theo KTTV thì từ trưa nay trời ấm dần...Bầm ăn bánh tẻ, uống trà, ngồi ngắm đường ngõ chắc vui mắt.
Từ phai Sơn Tây mình lập trang cộng hòa để ghép toàn bộ chương trình phản biện vào một nơi cho tiện sử dụng...
________________________________________
Thứ Năm, 11/03/2010, 09:18
Chuyện kể dưới ngọn đèn đường: Chồng xứ lạ (Phần 2)
>> Phần 1: Mối tình đầu
TP - Mẹ tôi đã bỏ quê Hưng Yên đi làm dâu một nơi xa lắc, xa bằng những chuyến xe khách hai ngày. Bây giờ tôi chỉ làm dâu xa mẹ ba tiếng đồng hồ máy bay, mà nỗi khắc khoải thương xót như nhân đôi từ đời mẹ truyền lại đời con gái.
Trích bộ ảnh nổi tiếng của Trương Càn Kỳ (Đài Loan) Lưu ý: Ảnh chỉ có tính minh họa. Nhân vật trong ảnh không phải là nhân vật trong bài ký sự này. Những đôi vợ Việt chồng Đài tại trung tâm môi giới cô dâu tư nhân TPHCM
5 . Chồng tôi có người tình kém ông vài tuổi.
Nửa năm đầu sống ở Đài Loan, tôi tưởng cuộc đời tôi đã sang trang mới, những cuộc dạo bộ sáng sớm, ăn sáng bên nhau, chồng tôi chở đi tham quan khắp miền Trung của đảo.
Thán là một người đàn ông chăm lo chu đáo, ông tìm địa chỉ những gia đình cưới vợ Việt để chở tôi đến chơi cho đỡ buồn. Ông khoe khắp nơi người vợ trẻ, nhấn mạnh là có tốt nghiệp đại học, không phải loại gái lấy qua môi giới, ông không phải mất tiền!
Đôi khi niềm tự hào của Thán là nỗi ngại ngần của tôi.
Ở Việt Nam, tôi chỉ biết học, sang Đài Loan tôi tập làm người vợ, Thán tận tình chỉ dạy cho tôi mọi điều, từ bếp núc tới chợ búa, thu dọn nhà cửa. Việt Nam là một xã hội đàn bà xoay quay cuồng quanh đàn ông, lúc nào cũng sợ mình chạy không kịp với đòi hỏi của nam giới. Cả đời tôi mới lần đầu tiên nhìn thấy có một người đàn ông như Thán lau nhà, đổ rác, đi chợ, nấu cơm, ủi đồ. Ở Đài Loan tôi mới thấy đàn ông đi mua băng vệ sinh cho đàn bà.
Nhưng Thán lại không thích đi mua băng vệ sinh cho tôi, không phải vì ngại, mà bởi ông luôn giục, có bầu đi, có bầu đi em.
6. Những buổi chợ đêm làm tôi nhớ nhà da diết. Ở đó tôi gặp nhiều đồng hương, đứng nấp sau những quầy hàng lúc lỉu đồ ăn khô, những bình trà lớn bằng thép ứa ra lớp mồ hôi đá lạnh buốt.
Cô dâu Việt Nam quanh khu chung cư Quế Viên tôi chỉ gặp mặt khi đi đổ rác. Bốn giờ chiều xe rác chạy qua, những người đi đổ rác nếu nói giọng Nam chắc chắn là cô dâu Việt, nói giọng Bắc là ô sin.
Không phải giọng nói ngăn cách chúng tôi, mà là thân phận đã làm chúng tôi ngại ngần.
Trong mắt những bà ô sin thường gọi nhau oang oang trước đầu xe rác, cô dâu Việt là những cô bòn tiền chồng, không chịu lao động nặng nhọc.
Trong mắt những cô dâu miền Nam, sự kiêu hãnh và tự trọng của những bà ô sin thật rỗng tuếch và giả dối. Chẳng phải đều cần tiền như nhau, sao còn chia đẳng cấp.
Quen Thúy, tôi phát hiện cô ấy không bao giờ trả lời những câu hỏi của đồng hương nói giọng Bắc, lấy cớ âm điệu khó nghe, nghe hổng ra. Hoặc giả, chỉ trả lời bằng tiếng Hoa.
Giọng tôi nửa Sài Gòn nửa Hưng Yên. Tôi chới với giữa những định kiến.
Thúy dắt tôi về thăm nhà cô một buổi. Thúy ở trong con ngõ nhỏ cách nhà tôi chừng năm phút đi bộ, phía bên kia công viên giữa phố. Nhà Thúy treo những ảnh gỗ ghép khắp bốn phía tường, những đồ trang trí trong nhà cũng bằng gỗ. Tất thảy màu sơn véc-ni nâu bóng. Nghe nói chồng Thúy cũng mê tín như chồng tôi, ông ta không ưa đồ kim khí.
Tôi nói, vậy nhẫn cưới có bằng gỗ không?
Thúy nói, làm gì có nhẫn cưới dây chuyền, cưới xong bà mối ở Sài Gòn lột hết rồi còn đâu. Nhà Thúy được nhận bốn triệu đồng, coi như xong đời con gái.
Tôi về, Thúy bị chồng tát lật mặt. Chồng Thúy lái taxi, ngoài đường toàn gặp người lạ nên bước vào cửa nhà chỉ chấp nhận người quen. Ai cho cô vợ Việt cái quyền kết bạn mà chưa xin phép chồng?
Thán ngược lại, mỗi lần quen biết ai lấy vợ Việt, Thán thường tìm cách dẫn tôi tới làm quen, trò chuyện hỏi han. Thán thích tám (tán phét) như đàn bà, ông có ưu điểm nổi bật, là không bao giờ đánh vợ.
Tôi đứng im một lúc để trấn tĩnh, tự nhủ không khóc. Nếu không cả tôi và đứa bé trong bụng sẽ đều ngập ngụa trong nước mắt. Tôi nói, con trai ạ, mẹ quyết định không nạo thai là đúng.
Trong mắt đồng hương, tôi là một kẻ may mắn, họ ít khi tốt nghiệp lớp tám, tôi được học cho tới lúc lấy chồng. Họ bị chồng chọn, tôi được chọn chồng. Mỗi tháng chồng cho 100 đô la gửi về nhà vợ ở Việt Nam đã được coi là may mắn, chồng tôi mỗi tháng cho tôi gấp ba lần, tôi vẫn cất trong tài khoản riêng.
Thế nhưng ngược lại, trong mắt tôi, cuộc sống của một cô dâu Việt bình thường ở quanh tôi lại quá khó hiểu. Được đi học tiếng Hoa không mất tiền tại bất kỳ trường Tiểu học nào, nhưng các cô lại thích ra quán ăn Việt Nam túm tụm mất tiền trên chiếu bạc hơn.
Những buổi chợ đêm Đài Trung náo nhiệt tới bốn năm giờ sáng, chúng tôi đi mỏi chân, thường chọn một quán ăn nhỏ dừng chân ăn bữa đêm. Chồng tôi luôn tìm quán nào có cô Việt Nam đứng bán. Những cô dâu Việt rất dễ nhận ra trong đám đông, bởi làn da kém trắng hơn gái Đài nhưng mượt mà khỏe mạnh, đôi mắt hai mí với gò má cao, và bởi vị trí cố định cắm mặt sau xe hàng ăn.
Người đứng ra phía trước luôn là chồng hoặc mẹ chồng. Nếu không có một trong hai người ấy, tôi đoán cô dâu Việt ấy đã bỏ chồng.
Sau vài năm có quốc tịch Đài Loan, nếu được ra xã hội làm việc hoặc buôn bán, rất ít cô Việt Nam nào còn ở với chồng. Đó là lý do vì sao rất nhiều đàn ông Đài giữ riệt vợ Việt ở trong nhà, như chồng tôi.
Họ không chỉ sợ mất vợ, những người đàn ông ấy còn sợ mất tài sản. Vợ cũng là một trong những tài sản họ tậu được khi trưởng thành.
Và mỗi buổi chợ đêm, tôi luôn nhớ mẹ tôi. Không hiểu sao tôi luôn nhớ mẹ mỗi khi đêm tối, có những ánh đèn bóng đỏ quanh khu chợ. Những ngọn đèn bóng đỏ ngày xa xưa tôi vài tuổi, chỉ nhớ mẹ ở khu kinh tế mới, chờ ba tôi về hàng đêm hàng tuần hàng tháng, xa lăng lắc. Và mẹ ru tôi: “Má ơi đừng gả con xa...”.
Mẹ tôi đã bỏ quê Hưng Yên đi làm dâu một nơi xa lắc, xa bằng những chuyến xe khách hai ngày. Bây giờ tôi chỉ làm dâu xa mẹ ba tiếng đồng hồ máy bay, mà nỗi khắc khoải thương xót như nhân đôi từ đời mẹ truyền lại đời con gái.
Tôi không muốn con gái tôi rồi sẽ lại khắc khoải những lúc phương xa, thổn thức “chim vịt kêu chiều” dù quanh đây đâu có con chim nào kêu. Tôi muốn con tôi mạnh mẽ, một người đàn ông, không im lặng, không dị tướng, hài hòa và mãi mãi thuộc về tôi.
7 . An Kỳ đã li hôn. Nhà cô ta ở bên kia chợ đêm Đài Trung. An Kỳ nuôi hai con gái riêng. Chồng tôi đòi cưới nhưng An Kỳ giống như mọi người đàn bà Đài Loan khác, chỉ thích làm người tình, không thích làm vợ. Trong một lần cãi vã, chồng tôi bỏ sang Việt Nam và sau nửa tháng cưới tôi tại Sài Gòn.
Tôi chỉ biết điều đó khi cái thai trong bụng tôi đã được bốn tháng, siêu âm phát hiện ra con trai, chồng tôi như phát điên phát rồ.
Nếu Thán quả thật nhìn thấy được số phận, sao ông vẫn cưới tôi về Đài Loan?
Thán đã có ba đứa con trai với người vợ trước, ông chỉ muốn có con gái. Con gái mang lại phúc lộc cho sự nghiệp thiên văn phong thủy của ông. Phải chăng vì thế mà ông yêu An Kỳ bền bỉ như vậy?
Tôi từ chối phá thai. Sau khi từ bệnh viện trở về, chồng tôi đi suốt đêm. Khi tôi gọi điện, sau năm sáu hồi chuông, An Kỳ nhấc máy.
Tôi ngỡ ngàng: Chồng tôi đâu, chị là ai?
An Kỳ im lặng, chồng tôi chửi to trong đầu kia chiếc điện thoại: Cút đi!
Tôi đứng im một lúc để trấn tĩnh, tự nhủ không khóc. Nếu không cả tôi và đứa bé trong bụng sẽ đều ngập ngụa trong nước mắt. Tôi nói, con trai ạ, mẹ quyết định không nạo thai là đúng.
Nửa năm trăng mật đã kết thúc.
Giờ này năm ngoái tôi còn cầm mũ áo cử nhân tươi cười trong sân trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Giờ này năm nay, tôi bỗng dưng bị bỏ rơi nơi xứ lạ. Thời gian như một kẻ lật mặt, đã bội tín với tôi trong trò chơi hạnh phúc.
Tôi thương hại An Kỳ lúc cô ta khóc lóc vật vã ngày tôi mới về Đài Trung. Có đêm An Kỳ gọi chồng tôi tới chứng kiến cô ta chết, chồng tôi bảo tôi, em ngủ đi, anh ôm em cho em ngủ.
Vì thế tôi càng không thể khóc lóc như người đàn bà kia. Tôi muốn bảo vệ chính tôi và đứa con tôi trong bụng. Đứa con là máu thịt, không phải là một công cụ để đạt tới mục đích nào trong đời, như chồng tôi mong.
Tôi tự cho rằng mình chưa làm gì sai. Cảm ơn ông trời đã cho tôi sự cứng cỏi mạnh mẽ, giờ đây tôi còn quả quyết hơn cả ngày xưa, giây phút cùng Đàn ở Thủ Đức. Tôi cũng trưởng thành và can đảm hơn khoảnh khắc rời khỏi mối tình đầu, đứng ở ngã ba đường, giữa Bến Tre xa lạ, không biết đời mình rồi sẽ về đâu.
Giờ tôi biết, tôi sẽ đi về phía tình mẫu tử, đi về phía đứa con yêu dấu.
Thúy đưa tôi tới bác sĩ gần nhà. Ông bác sĩ kiệm lời không hỏi han nhiều. Chắc ông quen với việc, mỗi bà bầu Việt Nam là một kho tủi hờn, mà ông chẳng muốn thành túi trút những bi kịch ngoại quốc ấy.
Kỳ tiếp: Đứa trẻ không mong đợi
Trang Hạ
Đang tải dữ liệu...
Hôm nay là Thứ Năm, 11 Tháng Ba 2010
Trang chủ > Góc Giải trí > Cười ;-Dzui
Những vần thơ vui 8-3
08/03/2010 09:39:41 AM
Ngày 8-3, các đấng mày râu ngoài việc săn lùng quà tặng chị em, còn sáng tác những vần thơ hài hước. Vào công cụ tìm kiếm, gõ cụm từ "thơ vui ngày 8.3" sẽ có thật nhiều kết quả với đủ màu sắc.
Phân bua:
Hôm nay mồng tám tháng ba.
Giá hoa thì đắt, giá quà thì cao
Tiền lương tiêu hết hồi nào
Thù lao, tiền thưởng chẳng trao lễ này...
Ai đem quà cáp kềnh càng
Riêng tôi dâng tặng cho nàng thơ thôi
Hoa hồng mấy bữa héo rồi
Còn thơ thơ tuyệt vời là thơ
Tâng bốc
Kính vợ đắc thọ
Sợ vợ sống lâu
Nể vợ bớt ưu sầu
Để vợ lên đầu là trường sinh bất tử
Vợ là cô Tấm thảo hiền
Cho ta thỏa thích mọi miền rong chơi
Vợ là con Phật, cháu Trời
Rẽ mây tụt xuống làm người trần gian
Thiêng liêng lắm, xin miễn bàn
Định nghĩa không đúng chết oan có ngày
Mấy lời định nghĩa chưa hay
Mong em xá tội, đừng bay về trời
Vợ ơi! Vợ ơi! Vợ ơi!
Dẫu cho răng rụng - suốt đời anh yêu!
Tự trào
Là đàn ông tức là mê rửa chén
Mơ lau nhà và háo hức lau xe
Làm đàn ông là tựa cửa đợi vợ về
Nhanh nhảu chạy ra đỡ làn, đỡ nón
Dịu dàng bằng cánh tay năm ngón
Hỏi nàng xem có uống nước không?
Rồi bưng lên trên khay nhỏ màu hồng
Nước giải khát, khăn lau tay, xí muội...
Khổ sở
Hôm nay mồng tám tháng ba
Đàn ông xách gói chạy ra chạy vào
Mua hoa mua quà ào ào
Tiền đâu trong túi cứ nhào nhào ra
Hôm sau mồng chín tháng ba
Lục lọi trong túi tiền đâu mất rồi
Mì tôm cả tháng đến hồi
Cố nhai cố nuốt xong rồi tháng ba
Đùa tí
Hôm nay mồng tám tháng ba
Chị em phấn khởi đi ra đi vào
Đàn ông kính cẩn cúi chào
Chị em phấn khởi đi vào đi ra...
Hôm sau mồng chín tháng ba
Chị em tưởng bở đi ra đi vào
Đàn ông hổng có cúi chào
Chị em tiu nghỉu hết vào lại ra...
Chúc chị em tận hưởng ngày 8-3 thật vui vẻ trong sự quan tâm săn sóc nhiệt tình của các đấng mày râu!
Theo Sưu tầm
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự Do – Hạnh phúc
----------*----------
Sơn Tây, ngày 11 tháng 3 năm 2010
PHẢN BIỆN
LÀM RÕ VỤ ÁN HÌNH SỰ CHÁY CHỢ NGHỆ
Vụ án cháy chợ Nghệ được Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Tây khởi tố vụ án hình sự số 03 ngày 4/8/2006:Vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy theo điều 240 K3 BLHS.
Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT-CA tỉnh Hà Tây & Hà Nội đã có bản kết luận số 39 ngày 8/3/2007 và các bản kết luận điều tra bổ sung vụ án số 94 ngày 30/5/2007, số 189 ngày 19/11/2007, số 38 ngày 29/4/2008; số 24 ngày 26/2/2010. Viện KSND thành phố & thị xã Sơn Tây đã có ba bản cáo trạng số 87 ngày 24/8/2007, số 87a ngày 20/12/2007 & 87B ngày 19/6/2008; Tôi đã bác bỏ các kết luận và cáo trạng nêu trên bằng đối thoại trực tiếp tại các cơ quan điều tra và Kiểm sát, cũng như tại phiên tòa xét xử sơ thẩm lần 1 ngày 5&6/01/2009 tại Tòa án nhân dân thị xã sơn Tây, đồng thời viết đơn gửi các cơ quan có thẩm quyền ngày 22/11/2007; 20/12/2007; 25/12/2007; 01/5/2008; 20/6/2008; 05/6/200 và ngày 02/3/2010 gửi(4 trang A4-10g thư đảm bảo):
Công an thành phố Hà Nội số 250; Ban thường vụ thành ủy Hà Nội số 251; Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây số 252;Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội số 253; Ban thường vụ thị ủy thị xã Sơn Tây số 257; Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội số 258; Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây số 259;Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây số 260; có nội dung chính như sau:
BÁO CÁO CỦA BQL CHỢ NGHỆ
(trích báo cáo PCCC số 25 ngày 13/4/2005 của BQL)
...Ban quản lý chợ Nghệ được biên chế 49 người, trong đó có 4 hợp đồng có thời hạn, 14 hợp đồng không thời hạn và 31 viên chức hưởng lương đơn vị SỰ NGHIỆP, đang thực hiện quyết định 1240/QĐ-TC ngày 22/3/1988 của UBND thành phố Hà Nội, quy định chức năng quyền hạn nhiệm vụ của BQL chợ Nghệ. BQL hiện có gần 1000 hộ kinh doanh cố định tại 3 khu vực của chợ Nghệ/diện tích 13.000 m2. Ngày 10/9/1997 BQL đã ban hành: Phương án PCCC tại các khu vực của chợ, văn bản dài 13 trang. Ngày 15/7/2004 tại công văn số 03/2004 QĐ- PCCC của BQL đã ban hành quy định về chức năng nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy chuyên nghiệp và kiêm nhiệm. Sau mười tháng thực hiện cho thấy cần điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. BQL chợ Nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định số 03/2004 bằng công văn 24/CV-BQL ngày 12/4/2005 về công tác PCCC.
Ngày 23/6/2003 Công an Hà Tây có công văn số 85/PC23 sau khi kiểm tra PCCC tại chợ, đã kiến nghị UBND thị xãc chỉ đạo thực hiện một số yêu cầu phục vụ cho việc PC&CC tại chợ Nghệ như: Chuyển cầu dao tổng lên gác hai của BQL, chỉ đạo Chi nhánh điện cắt tất cả các nguồn điện khác không qua cầu dao tổng của BQL chợ, bổ sung 40 bình bọt MFZ8 mới, xây dựng thêm hai trạm bơm chữa cháy và ba họng nước cố định cùng lăng vòi cứu hỏa. Ngày 8/7/2003 BQL đã có công văn số 05/CV—PCCC và ngày 02/7/2004 BQL đã có công văn số 01/BQL/PCCC đề nghị thị xã trang bị phương tiện PPCC nêu trên.
Chợ Nghệ được bộ Nội thương thiết kế xây dựng từ năm 1986, cho đến nay chất lượng của chợ đã xuống cấp và cả ba khu vực gồm: Chợ Chính, chợ Thực Phẩm, chợ gia súc đều quá tải, không đủ điều kiện an toàn trong công tác bảo vệ tài sản và PCCC( BQL báo cáo & khẳng định).
Trước thực trạng trên đề nghị thường trực HDND&UBND thị xã sớm có văn bản cho phép BQL chợ được đầu tư trang thiết bị PC&CC. Tổ chức tập huấn PC&CC cấp thị xã, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn: Làm bến nước để xe cứu hỏa lấy nước được tại bờ hào thành cổ khu vực giáp chợ Nghệ, giao cho Công ty Cấp nước đặt các họng nước sạch 24/24 giờ phía trong các cổng chợ Chính như cổng số 1-số 3- số 5 cổng chợ Thực phẩm và cổng chợ Trên phía phố Phùng Khắc Khoan. Giao cho đài Viễn Thông thị xã lắp đặt 2 Ca bin điện thoại công cộng tại chợ Nghệ, nhằm mục đích kinh doanh & phục vụ. Chỉ đạo chi nhánh điện cắt các nguồn điện do dân tùy tiện bán cho một số người kinh doanh hàng thịt gia súc sáng sớm. Lắp đặt đường điện 3 pha bán cho thương nhân khu vực chợ Thực phẩm qua cầu dao tổng số hai của BQL chợ. Sớm có văn bản chính thức về quy hoạch và thời gian, quy mô xây dựng chợ Nghệ mới gồm có: Tầng hầm để xe Ôtô, xe máy các tầng trên dành cho khoảng 13000 thương nhân kinh doanh đa ngành hàng trên cùng một khu vực, chấm dứt việc sử dụng lòng đường, vỉa hè kinh doanh, gây mất mỹ quan, ảnh hưởng không tốt đến môi trường như hiện nay trên các đường phố của hai phường Lê Lợi & Quang Trung.
Tiếp đó BQL có tờ trình 41/BQL ngày 01/7/2005 đề nghị PC 23; UBND thị xã và nhiều cơ quan có thẩm quyền khác... :
Nước có quốc pháp, gia có gia uy, đúng phải là chân lý chứ không phải cái đúng sự kiện?
(trích báo cáo PCCC số 41 ngày 1/7/2005 của BQL)
BQL chợ hiện quản lý gần 1000 hộ kinh doanh cố định tại 3 khu vực của chợ Nghệ trên diện tích 12.319m2; Trong đó khu chợ Chính vẻn vẹn có 8.413m2/835 người = 9,75m2 đất/ người kinh doanh, gồm bộ phận quản lý, đường đi, đất lưu không, đất xây dựng, đất chuyên dùng cho PCCC, những nơi không dùng cho kinh doanh...vì lúc đó chưa thu hồi đất của công ty Bách Hóa & Công ty Vật tư...(chợ thực Phẩm 1.670m2; chợ Trên bán gạo là 2.236m2). Để thực hiện yêu cầu phòng chống cháy nổ BQL chợ đã biên chế một tổ chuyên nghiệp làm nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy(tổ có 7 người). Hàng năm được Công an PC23 tỉnh Hà Tây huấn luyện nghiệp vụ và cấp chứng chỉ, tổ được trang bị các dụng cụ như: Hai câu liêm, hai thang tre, 2 xà beng,dao, búa, kìm điện, có 60 bình bọt MFZ8 để tại BQL và các khu vực quầy hàng của thương nhân, bốn máy nước cứu hỏa được đặt tại hai trạm bơm số 1 & số 2 chợ Chính, hai bể nước ngầm chữa cháy 130 m3.
Trước yêu cầu của Chi nhánh điện và PC23 Hà Tây, BQL đề nghị UBND thị xã nghiên cứu giao cho các cơ quan chức năng thuộc thị xã kiểm tra, xác định, lập dự toán.(Trong trường hợp nếu chợ Nghệ không được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho xây mới), thì cho phép BQL chợ NGhệ được sửa chữa, mua sắm một số vật dụng, vật tư thiết yếu để chợ Nghệ hoạt động bình thường theo tiêu chí là: “ An toàn – Vệ sinh – Văn minh – Hiệu quả” như sau:
1/ Thay đồng hồ đếm điện mới có công xuất lớn hơn, thay cáp trục chính vì đã xuống cấp, chuyển cầu dao tổng lên gác hai BQL.
2/ Cho phép BQL được xây lắp thêm một đường điện mới tại khu chợ Thực phẩm cho khoảng 40 hộ kinh doanh từ 3h sáng/ ngày.
3/ Chỉ đạo phòng nội vụ lao động, cho kiểm tra chất lượng của hệ thống chống sét tại chợ. BQL được tiến hành sử chữa nhỏ một số nhà bán hàng như chống dôt, chống sập, chống thấm, chống tắc nước thải.
4/ Giao cho Chi nhánh điện cùng BQL bàn với các thương nhân sử dụng điện, CẢI TẠI lại mạng lưới điện kinh doanh tại chợ chính, mỗi hộ có ATOMAT riêng để đảm bảo an toàn.
5/ Thực hiện từng bước kiến nghị của PC23 tại công văn số 85/PC23 ngày 23/6/2003 về mua sắm và trang bị thêm thiết bị PCCC cho BQL chợ Nghệ.
BQL trân trọng đề nghị các quý cơ quan có thẩm quyền quan tâm giải quyết, nhằm thiết thực hưởng ứng công tác đảm bảo an toàn về cháy nổ tại chợ Nghệ cũng như trên toàn thị xã.
Gần khi chợ cháy nhất là công văn 92:
“trích công văn số 92/BC/BQL ngày 14/12/2005 Báo cáo trả lời kiến nghị cử tri trước kỳ họp thứ 6 khóa 17”
...Ngày 23/6/2003 Công an Hà Tây có công văn số 85/PC23 sau khi kiểm tra PCCC tại chợ, đã kiến nghị UBND thị xãc chỉ đạo thực hiện một số yêu cầu phục vụ cho việc PC&CC tại chợ Nghệ như: Chuyển cầu dao tổng lên gác hai của BQL, chỉ đạo Chi nhánh điện cắt tất cả các nguồn điện khác không qua cầu dao tổng của BQL chợ, bổ sung 40 bình bọt MFZ8 mới, xây dựng thêm hai trạm bơm chữa cháy và ba họng nước cố định cùng lăng vòi cứu hỏa. Ngày 8/7/2003 BQL đã có công văn số 05/CV—PCCC và ngày 02/7/2004 BQL đã có công văn số 01/BQL/PCCC đề nghị thị xã trang bị phương tiện PPCC nêu trên.
Ngày 8/7/2003 BQL đã có công văn số 05/CV-PCCC, ngày 02/7/2004 BQL có CV 01/BQL/PCCC; báo cáo PCCC số 25 ngày 13/4/2005 của BQL ngày 01/7/2005 BQL có Tờ trình số 41 về PCCC. Qua kiểm tra của PC23 ngày 26/8/2005 BQL đã có kiến nghị:
Đưa cầu dao tổng ra ngoài chợ, đầu tư thêm 2 trạm bơm và 45 bình MFZ8, đưa khoảng 4-6 họng nước sạch dùng cho PCCC vào các cổng chợ, làm bến nước tại bờ hào thành cổ gần chợ, Chi nhánh điện cần xây dựng riêng đường điện cho chợ thực phẩm, làm cầu dao tổng 2 của BQL cho khu chợ thực phẩm, để cắt điện khi không có nhu cầu họp chợ. Chợ.
Chợ Nghệ được bộ Nội thương thiết kế xây dựng từ năm 1986, cho đến nay chất lượng của chợ đã xuống cấp và cả ba khu vực gồm: Chợ Chính, chợ Thực Phẩm, chợ gia súc đều quá tải, không đủ điều kiện an toàn trong công tác bảo vệ tài sản và PCCC. Tuy vậy với khả năng tốt nhất của mình BQL chợ đã và đang phấn đấu thực hiện theo tiêu chí: “ An toàn- Vệ sinh – Văn minh - Hiệu quả” và nhiều công văn khác xong CHƯA được PC 23& UBND thị xã và các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết thì chợ bị cháy như nêu trên.
KẾT LUẬN VỚI ÔNG VŨ TẢN HỒNG
Theo cáo trạng số 87/KSĐT ngày 24/8/2007 thì:...Chợ Nghệ được đưa vào sử dụng năm 1988 với tổng diện tích 12.319m2. BQL chợ Nghệ thành lập theo QĐ số 1240 của UBND thành phố Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có con dấu và tài khoản riêng. Nguồn thu tại chợ được sử dụng để chi lương, chi thường xuyên, chi cho các hoạt động bảo vệ, tu sửa nhỏ và đảm bảo công tác PCCC tại chỗ. Đầu tư kinh phí lớn cho PCCC phải được khảo sát, lập dự án trình PC 23 Hà Tây, nhưng hiện tại UBND thị xã chưa nhận được phương án thiết kế, dự toán nên chưa bố trí kinh phí.
Kết luận: Đối với Vũ Tản Hồng sau khi tiếp nhận bàn giao Trưởng ban quản lý chợ Nghệ, kiêm trưởng ban PCCC, nhưng vẫn tiếp tục cho các hộ kinh doanh khu ngoài trời sử dụng điện. Trong khi biết rõ hệ thống điện tại chợ Nghệ xuống cấp, cũ nát không đảm bảo an toàn cho công tác PCCC, biết khu ngoài trời chợ Nghệ không có sơ đồ thiết kế hệ thống điện được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Không có biện pháp khắc phục các kiến nhị của PC23 Hà Tây và Chi nhánh điện thị xã Sơn Tây, nhằm đảm bảo an toàn về PCCC tại chợ mà Trông chờ vào việc hỗ trợ kinh phí của UBND thị xã Sơn Tây. Dẫn đến chập điện tại quầy hàng của hộ chị Lê Hồng Mai kinh doanh quần áo may sẵn tại khu ngoài trời chợ Nghệ làm cháy chợ Chính chợ Nghệ 6:15 ngày 18/12/2005 thiệt hại là 4.077383.300đ.
* Việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ bộ phận hoặc toàn bộ tại chợ Nghệ theo điều 19-12-21/NĐ35/CP thì có PC23-UBND thị xã, tôi không có quyền...
* Biết rõ tình hình PC&CC nên tôi đã có 25 báo cáo khẳng định: BQL không còn khả năng đảm bảo về PCCC và Bảo vệ tài sản...trình PC23-UBND thị xã...
* Biết khu ngoài trời không có sơ đồ thiết kế tôi đã đề nghị bằng nhiều văn bản thực hiện yêu cầu của Chi nhánh và PC 23 lắp cầu dao tổng số 2, thay cáp trục chính, lắp ATTOMAT cho mỗi hộ xong không được duyệt của Chủ tịch thị xã.
* Theo quy định của Luật PCCC, thẩm quyền trang bị phương tiện PCCC tại chợ Nghệ thuộc trách nhiệm của Chủ tịch UBND thị xã nên PC 23 gửi đích danh chủ tịch tại công văn 85?PC23 ngày 23/6/2003 và biên bản kiểm tra ngày 27/8/2003...
* Như vậy lỗi để cháy chợ là do Chủ tịch UBND thị xã chứ không phải tại tôi Trông chờ như cáo trạng nêu.
* Báo cáo PCCC số 25 ngày 13/4/2005 của BQL- báo cáo PCCC số 41 ngày 1/7/2005 của BQL- công văn số 92/BC/BQL ngày 14/12/2005 Báo cáo trả lời kiến nghị cử tri trước kỳ họp thứ 6 khóa 17...UBND đã nhận xong đã không giải quyết theo thẩm quyền NĐ35/PCCC, (không có văn bản nào, vậy theo điều 15 NĐ 110/CP ngày 8/4/2004 về công tác văn thư ông Thiệp phải có nghĩ vụ trả lời BQL chợ Nghệ, PC23 và các cơ cơ chức năng về PCCC tại chợ Nghệ, vậy công văn nào...số... ngày...nội dung ).
* Là Trưởng ban tôi Vũ Tản Hồng: Đã thực hiện đúng nhiệm vụ được giao trong PCCC của điều 3 - 9...NĐ35/PCCC, biên bản kiểm tra của PC23 Hà Tây, quy chế làm việc của đơn vị, tôi cùng đơn vị thường xuyên tổ chức thực hiện công tác PCCC, làm hết bổn phận của cơ sở, kiến nghị kịp thời với PC 23, UBND, HĐND và các cơ quan chức năng, xong chưa được giải quyết thì cháy chợ. Điều 16 LPCCC 04/10/2001. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đầu tư xây dựng và sử dụng công trình (BQL năm 1996).
* Theo phân công của BQL tại quyết định số 79 ngày 07/11/2005 BQL thành lập BCH phòng cháy chữa cháy thì Trưởng ban phụ trách, lãnh đạo PCCC ngày lẻ trong các tháng, năm. Phó trưởng ban trực ngày chẵn, thời gian tính 24/24h/ ngày...Khi cháy là ngày 18/12/2005 ngày đ/c Phó Trưởng ban Nguyễn Thị Hòa Tính trực...
Điều 3/NĐ35. Trách nhiệm phòng cháy và chữa cháy của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong phạm vi quản lý và nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Ban hành các quy định, nội quy và biện pháp về phòng cháy và chữa cháy;
2. Tổ chức thực hiện các quy định, nội quy, điều kiện an toàn, biện pháp về phòng cháy và chữa cháy và yêu cầu về bảo đảm an toàn phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật;
3. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, kiến thức phòng cháy và chữa cháy; huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy; xây dựng phong trào quần chúng tham gia hoạt động phòng cháy và chữa cháy; quản lý và duy trì hoạt động của đội dân phòng, đội phòng cháy và chữa cháy cơ sở hoặc đội phòng cháy và chữa cháy chuyên ngành;
4. Kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy; xử lý hoặc đề xuất xử lý các hành vi vi phạm quy định, nội quy về phòng cháy và chữa cháy; tổ chức khắc phục kịp thời các thiếu sót, vi phạm quy định an toàn về phòng cháy và chữa cháy;
5. Trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy; chuẩn bị các điều kiện phục vụ chữa cháy; xây dựng và tổ chức thực tập phương án chữa cháy; tổ chức chữa cháy và giải quyết khắc phục hậu quả cháy;
6. Bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy;
7. Tổ chức thống kê, báo cáo theo định kỳ về tình hình phòng cháy và chữa cháy; thông báo kịp thời cho cơ quan Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy trực tiếp quản lý những thay đổi lớn có liên quan đến bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy của cơ quan, tổ chức mình;
8. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức và hộ gia đình xung quanh trong việc bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy; không gây nguy hiểm cháy, nổ đối với các cơ quan, tổ chức và hộ gia đình lân cận;
9. Tổ chức tham gia các hoạt động phòng cháy và chữa cháy khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 9/NĐ35. Điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở
1. Cơ sở được bố trí trên một phạm vi nhất định, có người quản lý, hoạt động và cần thiết có phương án phòng cháy và chữa cháy độc lập phải bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy sau đây:
A) Có quy định, nội quy, biển cấm, biển báo, sơ đồ hoặc biển chỉ dẫn về phòng cháy và chữa cháy, thoát nạn phù hợp với đặc điểm và tính chất hoạt động của cơ sở;
B) Có quy định và phân công chức trách, nhiệm vụ phòng cháy và chữa cháy trong cơ sở;
C) Có văn bản đã thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy đối với công trình thuộc diện phải thiết kế và thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy;
D) Hệ thống điện, thiết bị sử dụng điện, hệ thống chống sét, nơi sử dụng lửa, phát sinh nhiệt phải bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy;
Đ) Có quy trình kỹ thuật an toàn về phòng cháy và chữa cháy phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;
E) Có lực lượng phòng cháy và chữa cháy cơ sở được tổ chức huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy và tổ chức thường trực sẵn sàng chữa cháy đáp ứng yêu cầu chữa cháy tại chỗ; có phương án chữa cháy, thoát nạn và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
G) Có hệ thống báo cháy, chữa cháy, ngăn cháy, phương tiện phòng cháy và chữa cháy khác, phương tiện cứu người phù hợp với tính chất, đặc điểm của cơ sở, bảo đảm về số lượng, chất lượng và hoạt động theo quy định của Bộ Công an và các tiêu chuẩn về phòng cháy và chữa cháy; có hệ thống giao thông, cấp nước, thông tin liên lạc phục vụ chữa cháy tại cơ sở theo quy định;
H) Có hồ sơ quản lý, theo dõi hoạt động phòng cháy và chữa cháy theo quy định.
2. Đối với cơ sở khác thì thực hiện điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy quy định tại khoản 1 Điều này phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động của cơ sở đó.
3. Điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy quy định tại khoản 1 Điều này phải được tổ chức thực hiện và duy trì trong suốt quá trình hoạt động. Đối với các cơ sở quy định tại Phụ lục 2 Nghị định này trước khi đưa vào hoạt động phải được Cục Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy hoặc Phòng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy Công an cấp tỉnh chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy và chữa cháy.
Bộ Công an quy định cụ thể mẫu "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy và chữa cháy", thủ tục cấp "Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy và chữa cháy".
Điều 16/NĐ35/CP. Thiết kế và thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy
1. Dự án, công trình hay hạng mục công trình (sau đây gọi chung là công trình) quy định tại Phụ lục 3 Nghị định này thuộc mọi nguồn vốn đầu tư khi xây dựng mới, cải tạo hoặc thay đổi tính chất sử dụng phải có thiết kế về phòng cháy và chữa cháy do cơ quan có đủ năng lực thiết kế và phải được thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy trước khi thi công. Công trình không thuộc danh mục quy định tại Phụ lục 3 Nghị định này khi xây dựng mới, cải tạo hoặc thay đổi tính chất sử dụng vẫn phải có thiết kế bảo đảm các yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật nhưng không bắt buộc phải thẩm duyệt về phòng cháy và chữa cháy. (Phần ngoài trời xây năm 1996 khi chưa có NĐ này.Việc đề nghị thiết kế tại báo cáo số 25/PCCC ngày 13/4/2004).
Điều 16/65/LPCCC ngày 04/10/2001. Trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đầu tư xây dựng và sử dụng công trình
1. Chủ đầu tư thực hiện thủ tục trình duyệt dự án, thiết kế về phòng cháy và chữa cháy; chỉ được thi công khi thiết kế về an toàn phòng cháy và chữa cháy của công trình đã được duyệt; tổ chức kiểm tra, giám sát thi công, nghiệm thu và bàn giao công trình trước khi đưa vào sử dụng.
Trong quá trình thi công công trình, nếu có thay đổi thiết kế thì phải giải trình hoặc thiết kế bổ sung và phải được duyệt lại.
2. Trong quá trình thi công công trình, chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng phải bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
3. Trong quá trình sử dụng công trình, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thường xuyên kiểm tra, duy trì các điều kiện về phòng cháy và chữa cháy. (BQL năm 1996 lúc này chưa có luật mà là NĐ 49/CP, việc sử dụng công trình như tôi nêu trên Tôi & BQL 2005 không có vi phạm vì đã thực hiện nghiêm túc phần việc của mình theo luật định).
Theo khoản 3 điều 12 luật Viện kiểm sát ngày 2/4/2002 thì:
Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh:
http://f.tin247.com/ Xét xử vụ án cháy chợ tạm Vinh năm 2006 CANA: 08:00-16/01/2009 Ngày 15/1/209, Toàn án nhân dân thành phố Vinh (Nghệ An) đã đưa ra xét xử vụ án cháy chợ tạm Vinh xảy ra vào ngày 23/3/2006. Hội đồng xét xử buộc cơ quan quản lí chợ Vinh là UBND TP Vinh phải bồi thường 4,7 tỉ đồng cho 234 hộ kinh doanh bị thiệt hại do vụ cháy.Phạm Trọng Châu Báo CN Nghệ an.
KẾT LUẬN VỚI: Nguyễn Hoàng Giang và Hoàng Văn Châu :
Đã thực hiện đúng quy trình đấu mắc điện như đã được học và tuân theo quyết định số 01 ngày 18/8/1997 do ông Hồ Tuấn Vũ -Trưởng ban BQL chợ Nghệ; Ban hành quy chế làm việc của BQL; Cũng như thực hiện đúng điều 7-8 pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/2/1998.
Chúng tôi không có nghĩa vụ phải biết “việc phải có thiết kế điện khu ngoài trời, nội dung này chỉ có các lãnh đạo BQL mới biết mà thôi”.
...Khu vực ngoài trời của chợ Nghệ được UBND thị xã Sơn Tây cho phép cải tạo và đưa vào hoạt động tháng 9 năm 1996. Gồm 7 dãy nhà khung kèo sắt mái lợp ngói xi măng có 238 hộ kinh doanh Quá trình điều tra xác định: Trong quá trình đấu mắc hệ thống điện khu chợ ngoài trời chợ Nghệ, Nguyễn Hoàng Giang & Hoàng Văn Châu đã tập hợp 33 đơn xin mắc điện của các hộ kinh doanh ở khu ngoài trời, tiến hành khảo sát xác định vị trí đặt 33 công tơ này tại các hòm công tơ đếm điện trong dãy nhà A,B,C,D. Sau đó Giang & Châu chuyển 33 đơn xin mắc điện của các hộ kinh doanh ở khu ngoài trời chợ Nghệ lên cho Hồ Tuấn Vũ - Nguyên trưởng ban BQL chợ Nghệ trực tiếp phê duyệt & chỉ đạo Giang, Châu đấu mắc hệ thống điện tại khu ngoài trời chợ Nghệ. Hành vi trên của Nguyễn Văn Ất có dấu hiệu của tội: Vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy. Tuy nhiên bản thân Ất không có chuyên môn hiểu biết gì về điện, nên ẤT chỉ quản lý Giang & Châu về mặt hành chính, còn việc đấu mắc điện tại khu ngoài trời chợ Nghệ là do Giang & Châu theo sự chỉ đạo của Vũ. Mặt khác Ất không thừa nhận Giang, Châu 33 đơn xin mắc điện của các hộ kinh doanh khu ngoài trời cho ẤT, để ẤT chuyển lên cho Vũ và ngày 18/12/2005 chợ Nghệ bị cháy thì toàn bộ tài liệu của BQL chợ Nghệ đều bị cháy nên Cơ quan điều tra không thu thập được 33 đơn này. Vì vậy, Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Nội xét thấy không có đủ căn cứ vững chắc để khởi tố xử lý đối với Nguyễn Văn Ất về tội: Vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy.
Thưa quý ban:
Theo quyết định số 01 ngày 18/8/1997 do ông Hồ Tuấn Vũ-Trưởng ban BQL chợ Nghệ của BQL chợ Nghệ ban hành quy chế làm việc như sau:
A/ trưởng ban: Ngoài phần việc là người phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước nhà nước về mọi lĩnh vực công việc của đơn vị; song để phân định rõ và đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể Trưởng ban chịu trách nhiệm:
*Toàn bộ các khung chợ Chính; Tài chính, tài sản, kế hoạch & tổ chức hành chính-đội vé- điện.
* Bảo vệ điện và thuế của chợ
* Quan hệ với các ngành chức năng của thị xã và UBND các địa phương lân cận và công tác đối ngoại khác của cơ quan.
Đối với cán bộ nhân viên đội an toàn về PCCC đặc trách + điện:
3/... Việc mắc điện cho các hộ kinh doanh phải tuân theo đúng các nguyên tắc sau:
Tất cả các hộ kinh doanh nào muốn mắc điện hoặc muốn mắc công tơ để dùng riêng thì đội trưởng hoặc đội phó trong ca trực nếu nhận được sự báo cáo yêu cầu của các hộ kinh doanh thì phải hướng dẫn hộ kinh doanh đó làm đơn gửi lên cho đội PCCC an toàn đặc trách + điện; đội trưởng tổng hợp đơn ghi ý kiến đề xuất của mình vào đơn, sau đó báo cáo thủ trưởng cơ quan trực tiếp phụ trách về điện lúc đó mới được thực hiện theo đúng chỉ lệnh đã ghi trong đơn. Nhưng vẫn phải tuần theo nguyên tắc sau:
Đơn phải được thủ trưởng trực tiếp phụ trách về điện phê duyệt cho mắc điện mới hoặc tách ra.
Hộ kinh doanh phải tự túc mua dây theo tiêu chuẩn của PCCC PC23 quy định thông qua hướng dẫn của thợ điện.
Hộ kinh doanh phải tự túc mua đồng hồ đếm điện mang ra chi nhánh điện kẹp chì(có giấy bảo hành)
Thợ điện chỉ làm động tác ước tính cự ly giúp các hộ kinh doanh để các hộ kinh doanh mua đủ làm.
Đủ yêu cầu trân đội trưởng hoặc đội phó mới cho thợ điện mắc điện theo chỉ lệnh và chỉ được lấy tiền công, kỹ thuật mắc theo thỏa thuận đối với hộ kinh doanmh đó.
5/ Nghiêm cấm các thành viên trong đội đặc trách trong các ca trực tự ý mắc điện cho các hộ kinh doanh khi chưa có lệnh; Nếu ai vi phạm thì trước hết đội trưởng, đội phó trong ca phải chịu trách nhiệm liên đới và người trực tiếp làm đó phải chịu kỷ luật; Nếu thành viên nào mắc điện cho hộ kinh doanh ngoài công tơ sẽ bị kỷ luật buộc thôi việc; Nếu nhân viên hợp đồng thì cắt ngay hợp đồng sau 10 ngày phát hiện
6/ Hàng tuần vào thứ bảy có trách nhiệm bơm nước lên bể nước nhà vệ sinh...Quy chế dài 8 trang có hiệu lực thi hành từ 1/10/1997 nơi nhận UBND thị xã để b/c; các Khung để thực hiện, lưu hành chính.
Như vậy kết luận số 24 ngày 26/2/2010 của PC 14 tại mục tám là sai với NĐ 35 ngày 4/4/03 về PCCC, không phù hợp với quy chế này, đây là trách nhiệm chính của Trưởng ban Vũ và đội trưởng đội PCCC Ất cũng như theo pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/2/1998.
* Theo quyết định số 01 ngày 18/8/1997 và Quy chế số 03 ngày 8/5/2003 do ông Hồ Tuấn Vũ - Trưởng ban BQL chợ Nghệ của BQL chợ Nghệ ban hành quy chế làm việc, thì việc làm của chúng tôi là đúng.
* Nếu lúc này nếu có vi phạm thì BQL-UBND thị xã chỉ vi phạm NĐ số 49 ngày 15/8/1996/ PCCC mà thôi, (được quy định tại điều 15 hành vi vi phạm quy định về PCCC, chứ chưa có luật PCCC & NĐ35)
Nhiều năm sau sử dụng hệ thống điện chúng tôi lắp vẫn đảm bảo ban toàn... gồm các hòm công tơ số 6-8-10-14-17-18-20; cự ly gần nhất là: 20m xa nhất là 37m .Đến năm 2004 đã lắp cho 150 hộ.
Điều 7 Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 8 Cán bộ, công chức phải chấp hành quyết định của cấp trên; khi có căn cứ để cho là quyết định đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra quyết định; trong trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người ra quyết định và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.
Ngày 10/8/1984 PC 23 kiến nghị BQL chợ xây 4 trạm bơm, ngày 12/8/1994 PC23 có công văn 83/PC23 gửi chủ tịch UBND thị xã( BL 695)..nhưng thị xã chỉ xây 2 trạm bơm, ngày 23/6/2003 PC23 có công văn 85/PC 23 gửi Chủ tịch UBND thị xã...ngày 27/8/2003 PC23 mời ông Phùng Văn Thiệp - PCT UBND thị xã, ông thiệp nói đã giao cho các cơ quan chức năng thực hiện và sẽ thường xuyên chỉ đạo. Xong đến khi chợ cháy chưa làm gì?
Tháng 9 năm 1996 BQL cải tạo khu ngoài trời: Gồm 7 dãy nhà khung kèo sắt mái lợp ngói xi măng có 238 hộ kinh doanh là vi nghị định 49 của chính phủ ngày 15/8/1996 xử phạt trong lĩnh vực an ninh trật tự.
Ngày 08/6/1996 PC23 đã có công văn 55/PC23 về việc không xây kiot khu ngoài trời sát dãy nhà tôn A-B-C-D vì các lý do PCCC không an toàn theo quy định; Nhưng UBND thị xã và BQL không chấp hành nên khu ngoài trời vẫn được xây dựng, sau đó tự ý kéo điện ra như cáo trạng nêu; trách nhiệm này
Điều 16 LPCCC 04/10/2001. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đầu tư xây dựng và sử dụng công trình:
1...Chủ đầu tư thực hiện thủ tục trình duyệt dự án, thiết kế về phòng cháy và chữa cháy; chỉ được thi công khi thiết kế về an toàn phòng cháy và chữa cháy của công trình đã được duyệt; tổ chức kiểm tra, giám sát thi công, nghiệm thu và bàn giao công trình trước khi đưa vào sử dụng.(BQL năm 1996).
http://f.tin247.com/ Xét xử vụ án cháy chợ tạm Vinh năm 2006 CANA: 08:00-16/01/2009 Ngày 15/1/209, Toàn án nhân dân thành phố Vinh (Nghệ An) đã đưa ra xét xử vụ án cháy chợ tạm Vinh xảy ra vào ngày 23/3/2006. Hội đồng xét xử buộc cơ quan quản lí chợ Vinh là UBND TP Vinh phải bồi thường 4,7 tỉ đồng cho 234 hộ kinh doanh bị thiệt hại do vụ cháy.Phạm Trọng Châu Báo CN Nghệ an.
Theo khoản 2 điều 107 BLTTHS: Kính thưa quý ban; Hành vi của 3 chúng tôi không cấu thành tội phạm, do đã thực hiện đúng mệnh lệnh của Trưởng ban Hồ Tuấn Vũ... quy chế của BQL, quy định của các cơ quan nhà nước & pháp luật về PCCC. Ngược lại nhiều người khác vi phạm thì chưa được truy tố...
VỀ BQL LÀ BỊ ĐƠN DÂN SỰ
Về BQL chợ là bị đơn dân sự của vụ án: ...Trong quá trình điều tra vụ án, ngày 19/11/2007 Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Nội đã xác định bị đơn dân sự trong vụ án thuộc về BQL chợ Nghệ. Căn cứ yêu cầu của VKSND TP Hà Nội, ngày 3/9/2009 Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Nội đã làm việc với UBND thị xã Sơn Tây, về quan điểm của xã UBND Sơn Tây trong việc xác định bị đơn dân sự trong vụ án, UBND Sơn Tây nêu rõ căn cứ vào quy định của pháp luật thì bị đơn dân sự trong vụ án thuộc về BQL chợ Nghệ. Mặt khác tại phiên tòa hình sự sơ thẩm vụ án ngày 5/1/2009 do Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây xét xử, trong phần xét hỏi đại diện BQL chợ Nghệ đã nhận trách nhiệm bồi thường cho các bị hại với tư cách là bị đơn dân sự trong vụ án, (ông Nguyễn Xuân Lộc phó Trưởng ban phát biểu). Do vậy, Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Nội tiếp tục xác định bị đơn dân sự trong vụ án thuộc về BQL chợ Nghệ.
Kết luận trên là cảm tính, trái với điều 53 BLTTHS; điều 84 & 618 BLDS. BQL chưa bao giờ là Pháp nhân, nếu vậy thì PC23 không phải gửi Chủ tịch công văn 85/PC23 ngày 23/6/2003, đề nghị đ/c Chủ tịch chỉ đạo thực hiện....BQL không phải làm tờ trình 41/BQL hay báo cáo mà trực tiếp mua sắm trang bị PCCC.
Ngày 12/9/2008 với trách nhiệm của mình tôi đã viết đơn gửi Ban chi ủy- BQL thành phố Sơn Tây – Hà Nội về phản biện kết luận BQL chợ là bị đơn dân sự theo các điều 53 BLTTHS & các điều 84-93-618 BLDS, đề nghị BQL có chính kiến, song tại phiên tòa HSST ngày 05-06 ông Lộc đại diện BQL đã đồng ý với ý kiến đại diện UBND thị xã ông Chung trưởng phòng Kinh tế...Theo QĐ 1240/UBND ngày 22/3/1988 của thành phố Hà Nội thì điều 3/4: Giao cho đ/c Chủ tịch UBND căn cứ tình hình cụ thể quy định tổ chức bộ máy theo tinh thần biên chế gọn nhẹ và chỉ đạo có hiệu lực(UBND thị xã chưa ban hành); theo điều 8 & 15/NĐ 02/CP ngày 14/01/2003 về Phát triển và quản lý chợ, UBND tỉnh Hà Tây chưa có quyết định cá biệt cho chợ Nghệ; cũng như vậy NĐ 10/CP ngày 16/1/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho sự nghiệp có thu, sau này thay bằng NĐ 43/2006 ngày 25/4/06. Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế & tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập,(điều 35: giao cho...Chủ tịch UBND tỉnh chụi trách nhiệm thực hiện NĐ này...phải có QĐ cho từng đơn vị theo hướng giao quyền tự chủ cho đơn vị).Và như vậy từ khi thành lập đến nay BQL cũng chưa được quyền tự chủ như nêu trên.
Điều 53/BLTTHS. Bị đơn dân sự
1. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
2. Bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
A) Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự;
B) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
C) Được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc đòi bồi thường;
D) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
Đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn;
E) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
G) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.
3. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Điều 84. Pháp nhân
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Điều 93. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân
1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân.
2. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân.
3. Thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.
Điều 618. Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra
Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
NĐ số 02/2003 ngày 14/1/2003 về phát triển & quản lý chợ.
Điều 8. Ban quản lý chợ.
1. Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước.
2. Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản nhà nước và các hoạt động trong phạm vi chợ của một hoặc một số chợ; thực hiện ký hợp đồng với thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ; tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ theo quy định tại Điều 10 Nghị định này để trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.
Điều 15. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp
Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo việc lập Quy hoạch phát triển chợ, quản lý đầu tư xây dựng chợ theo phân cấp về đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chợ và các quy định sau:
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh:
A) Quyết định giao hoặc tổ chức đấu thầu lựa chọn doanh nghiệp kinh doanh khai thác chợ.
B) Quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Ban quản lý chợ đối với những chợ loại 1 (do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng) đang hoạt động do Ban quản lý chợ điều hành.
C) Quy định cụ thể việc sử dụng, thuê điểm kinh doanh tại chợ theo quy định tại Điều 11 Nghị định này.
D) Quy định cụ thể Nội quy chợ trên cơ sở Nội quy mẫu do Bộ Thương mại ban hành và phê duyệt nội quy của các chợ loại 1.
D) Quy định cụ thể việc xử lý vi phạm Nội quy chợ.
2. Uỷ ban nhân dân quận, huyện:
A) Quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Ban quản lý chợ đối với các chợ loại 2, loại 3 (do Nhà nước đầu tư hoặc hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng) đang hoạt động do Ban quản lý chợ điều hành.
B) Phê duyệt Nội quy chợ của các chợ loại 2 và 3.
3. Uỷ ban nhân dân xã, phường:
Có trách nhiệm quản lý các chợ loại 3 và phối hợp với các cơ quan cấp tỉnh, huyện quản lý các chợ trên địa bàn.
Điều 18. Tổ chức thực hiện.
1. Nghị định này được áp dụng ngay khi có hiệu lực thi hành đối với các chợ mới xây dựng chưa đưa vào hoạt động và các chợ sẽ đầu tư xây dựng hoặc cải tạo, nâng cấp.
2. Đối với các chợ đang hoạt động, giao Bộ Thương mại hướng dẫn và chỉ đạo việc áp dụng các quy định của Nghị định này trên nguyên tắc đảm bảo sự hoạt động ổn định của chợ và từng bước tiến tới thi hành đầy đủ Nghị định này.
3. Uỷ ban nhân dân tỉnh cần tập trung chỉ đạo hoàn thành sớm các công việc sau:
A) Xây dựng, bổ sung, điều chỉnh Quy hoạch phát triển chợ theo quy định của Nghị định này.
B) Ngăn chặn và chấm dứt tình trạng chợ tự phát sinh hoặc xây dựng không đúng quy hoạch; phải có kế hoạch và biện pháp xóa bỏ các chợ không nằm trong quy hoạch và các chợ tự phát sinh trước hết là các chợ họp trên lòng lề đường, hè phố ảnh hưởng tới an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và trật tự công cộng.
C) Tổ chức thực hiện các quy định tại Điều 7 Nghị định này.
D) Bố trí, sắp xếp cán bộ cho Ban quản lý chợ đối với các chợ đang hoạt động do Ban quản lý chợ điều hành theo hướng dẫn của Bộ Thương mại và Bộ Nội vụ; thực hiện các quy định của Nhà nước về tinh giản biên chế.
4. Bộ Thương mại xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn về tổ chức và quản lý các chợ trên sông, trên biển, chợ biên giới, chợ cửa khẩu và chợ nằm trong khu kinh tế cửa khẩu trên cơ sở các quy định của Nghị định này và các quy định liên quan, phù hợp với những thỏa thuận đã ký với các nước có chung đường biên giới.
Theo QĐ 1240/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội ngày 22/3/1988 thì UBND thị xã chưa có QĐ cá biệt để giao cho BQL: Giao cho đ/c Chủ tịch UBND thị xã Sơn tây căn cứ vào tình hình cụ thể quy định tổ chức bộ máy và quản lý theo tinh thần biên chế gon nhẹ chỉ đạo có hiệu quả.(theo HP 1980). Theo NĐ 10/CP ngày 16/10/2002, chúng tôi chưa được UBND có quyết định cá biệt và hướng dẫn và Điều lệ thực hiện.
KẾT LUẬN VỚI ÔNG PHÙNG VĂN THIỆP
Nguyên CT UBND thị xã Sơn Tây: ngày 27/8/2003 hồi 14:00 ký biên bản nội dung sau với PC 23:
* Phần ngoài trời hiện nay đã xây dựng mái che thuộc chợ. Nhưng không thiết kế hệ thống điện bổ sung nên việc cấp điện cho cấc hộ BQL chợ kéo từ các hộ kinh doanh khác đến. Phải thiết kế bổ sung hệ thống điện cho khu vực mái che này đảm bảo an toàn PCCC
* Kiểm tra, cải tạo hệ thống điện bảo bệ cho chợ đảm bảo anh toàn PCCC.
Đồng chí Phùng Văn Thiệp - PCT UBND thị xã phát biểu ý kiến(và ký tên, đóng dấu UBND): Các nội dung trên UBND thị xã đã giao phòng Kinh tế hạ tầng đô thị; Chi nhánh điện; BQL chợ tổ chức thực hiện và sẽ thường xuyên chỉ đạo để tổ chức thực hiện các nội dung trên. (cho đến khi cháy chợ Chủ tịch UBND thị xã Phùng Văn Thiệp chưa giao cho các cơ quan, không kiểm tra theo các điều 19-20-21 của NĐ số 35/ PCCC ngày 4/4/2003 của Chính Phủ, không đầu tư kinh phí cho PCCC theo tờ trình số 41 như BQL đề nghị. Hội đồng cần công bố các BL 48- 457-695-703-704).
Bút lục 457 ông Thiệp báo cáo với PC14 16:00 ngày 30/12/2005...Nhưng đến nay UBND thị xã chưa nhận được BQL chợ trình lên. Đã duyệt chủ trương cấp kinh phí cho công tác PCCC của BQL tháng 7/2005(quyết định, ngày tháng.. theo luật Ngân sách?).Việc xây dựng 2 trạm bơm cứu hỏa theo đề nghị của PC23 luôn được lãnh đạo UBND thị xã ủng hộ(giả dối), Nhưng từ tháng 1/2005(cáo trạng 87 ghi tại thời điểm tháng 4/2005 UBND tỉnh Hà Tây đã phê duyệt xây dựng chợ Nghệ mới...số QĐ ngày..., người ký...dấu.
* Theo luật tổ chức HĐND-UBND: Mục 6-7 điều 127 ngày 23/6/2003 về PCCC, thực hiện điều 43-47 NĐ35/PCCC ngày 4/4/2003
* Bút lục 457 ngày 30/12/2005 phản ảnh rõ thực trạng: Ông Thiệp báo cáo với PC14 16:00 ngày 30/12/2005...Nhưng đến nay UBND thị xã chưa nhận được BQL chợ trình lên. Đã duyệt chủ trương cấp kinh phí cho công tác PCCC của BQL tháng 7/2005(quyết định nào... theo luật Ngân sách?)
Điều 19. Kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy
1. Kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy được tiến hành theo các nội dung sau đây:
A) Việc thực hiện điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy phù hợp với từng đối tượng quy định tại các Điều 9, 10, 11, 12 và các điều có liên quan của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật;
B) Việc thực hiện trách nhiệm phòng cháy và chữa cháy phù hợp với từng đối tượng quy định tại các Điều 3, 4, 5, các điều có liên quan của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật;
C) Việc chấp hành các tiêu chuẩn và quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy và các yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy của người hoặc cơ quan có thẩm quyền.
2. Kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy được tiến hành theo chế độ kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất.
3. Trách nhiệm kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy được quy định như sau:
A) Người đứng đầu cơ sở, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, chủ phương tiện giao thông cơ giới, chủ rừng, chủ hộ gia đình có trách nhiệm tổ chức kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy trong phạm vi quản lý của mình theo chế độ kiểm tra quy định tại khoản 2 Điều này;
B) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên có trách nhiệm tổ chức kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy theo chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất trong phạm vi quản lý của mình;
C) Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy có trách nhiệm kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy định kỳ hàng quý đối với các cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ và phương tiện giao thông cơ giới có yêu cầu đặc biệt bảo đảm an toàn về phòng cháy và chữa cháy; 6 tháng hoặc một năm đối với các đối tượng còn lại và kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu nguy hiểm, mất an toàn về phòng cháy và chữa cháy hoặc vi phạm quy định an toàn về phòng cháy và chữa cháy và khi có yêu cầu bảo vệ đặc biệt.
4. Bộ Công an quy định cụ thể về thủ tục kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy.
Điều 20. Tạm đình chỉ, gia hạn tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, cá nhân không đảm bảo an toàn về phòng cháy và chữa cháy và phục hồi hoạt động trở lại
1. Các trường hợp bị tạm đình chỉ hoạt động quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Phòng cháy và chữa cháy được hiểu như sau:
A) Nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ là trong môi trường nguy hiểm cháy, nổ xuất hiện nguồn lửa, nguồn nhiệt hoặc khi đang có nguồn lửa, nguồn nhiệt mà xuất hiện môi trường nguy hiểm cháy, nổ;
B) Vi phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định về phòng cháy và chữa cháy là những vi phạm nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể dẫn đến nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ hoặc khi xảy ra cháy, nổ có thể gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
C) Vi phạm nghiêm trọng quy định về phòng cháy và chữa cháy là vi phạm có thể dẫn đến cháy, nổ gây hậu quả nghiêm trọng đã được cơ quan quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy có thẩm quyền yêu cầu khắc phục và đã bị xử phạt hành chính mà không khắc phục.
2. Việc tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ nhất và theo nguyên tắc nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ xuất hiện ở phạm vi nào hoặc vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy ở phạm vi nào thì tạm đình chỉ hoạt động trong phạm vi đó. Khi hoạt động của bộ phận hoặc của toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và cá nhân bị tác động ảnh hưởng mà xuất hiện nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ thì cũng bị tạm đình chỉ hoạt động.
3. Thời hạn tạm đình chỉ hoạt động được xác định căn cứ vào điều kiện, khả năng loại trừ nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ, khả năng khắc phục vi phạm về phòng cháy và chữa cháy nhưng không vượt quá 30 ngày. Hết thời hạn tạm đình chỉ hoạt động mà nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ chưa được loại trừ hoặc vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy chưa được khắc phục thì được xem xét gia hạn tạm đình chỉ tiếp nhưng không quá 30 ngày. Trường hợp đặc biệt, khi hết thời gian gia hạn tạm đình chỉ hoạt động mà nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ chưa được loại trừ hoặc vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy vẫn chưa được khắc phục vì lý do khách quan thì người ra quyết định tạm đình chỉ báo cáo cấp trên có thẩm quyền xem xét quyết định gia hạn tiếp hoặc xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Trong thời hạn tạm đình chỉ hoạt động, nếu nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ được loại trừ hoặc vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy đã được khắc phục thì được phép phục hồi hoạt động.
5. Quyết định tạm đình chỉ hoạt động và quyết định phục hồi hoạt động được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng lời; trường hợp người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ bằng lời thì trong thời gian ngắn nhất phải thể hiện quyết định đó bằng văn bản. Trường hợp người có thẩm quyền sau khi ra quyết định tạm đình chỉ bằng lời mà nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ hoặc vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy được loại trừ hay khắc phục nhanh thì có thể ra quyết định phục hồi hoạt động bằng lời.
Người đứng đầu cơ sở, cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình, người điều khiển hoặc chủ phương tiện giao thông cơ giới và cá nhân khi nhận được quyết định tạm đình chỉ phải chấp hành ngay và có trách nhiệm loại trừ nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ hoặc khắc phục vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy trong thời gian ngắn nhất.
6. Thẩm quyền tạm đình chỉ hoạt động, gia hạn tạm đình chỉ hoạt động và phục hồi hoạt động được quy định như sau:
A) Bộ trưởng Bộ Công an hoặc người được ủy quyền được quyền quyết định tạm đình chỉ hoạt động của bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân trong phạm vi cả nước; trường hợp đặc biệt thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định;
B) Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp được quyền quyết định tạm đình chỉ hoạt động của bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của mình;
C) Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy và Trưởng phòng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy trong phạm vi thẩm quyền của mình được quyền quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với từng bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân;
D) Cảnh sát kiểm tra an toàn về phòng cháy và chữa cháy được quyền tạm đình chỉ hoạt động đối với từng bộ phận, toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình, hoạt động của cá nhân khi đang có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy, nổ và phải kịp thời báo cáo cấp trên trực tiếp có thẩm quyền;
Đ) Người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động có quyền gia hạn tạm đình chỉ hoạt động và phục hồi hoạt động trở lại.
7. Bộ Công an quy định cụ thể mẫu "Quyết định tạm đình chỉ hoạt động", "Quyết định gia hạn tạm đình chỉ hoạt động", "Quyết định phục hồi hoạt động trở lại"; thủ tục tạm đình chỉ hoạt động, gia hạn tạm đình chỉ hoạt động và phục hồi hoạt động trở lại.
Điều 21. Đình chỉ hoạt động của cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và cá nhân không đảm bảo an toàn về phòng cháy và chữa cháy
1. Cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và hoạt động của cá nhân bị tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định này đã hết thời hạn tạm đình chỉ mà không khắc phục hoặc không thể khắc phục được và có nguy cơ cháy, nổ gây hậu quả nghiêm trọng thì bị đình chỉ hoạt động. Việc đình chỉ hoạt động có thể thực hiện đối với từng bộ phận hoặc toàn bộ cơ sở, phương tiện giao thông cơ giới, hộ gia đình và hoạt động của cá nhân.
2. Người có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b và c khoản 6 Điều 20 của Nghị định này có quyền tạm đình chỉ hoạt động đối với đối tượng nào thì được quyền đình chỉ hoạt động đối với đối tượng đó.
3. Bộ Công an quy định mẫu "Quyết định đình chỉ hoạt động" và thủ tục đình chỉ hoạt động.
Điều 43. Ngân sách đầu tư cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy
1. Kinh phí bảo đảm các hoạt động phòng cháy và chữa cháy của lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy, các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các đơn vị khác thụ hưởng ngân sách nhà nước và các địa phương được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách.
Hàng năm Nhà nước bảo đảm và bố trí riêng ngân sách cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy; Bộ Công an lập kế hoạch ngân sách đầu tư cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy và giao Cục Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thực hiện.
2. Cơ quan, tổ chức không thụ hưởng ngân sách nhà nước, hộ gia đình, cá nhân, tổ chức nước ngoài đóng trên lãnh thổ Việt Nam tự bảo đảm kinh phí cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy theo quy định.
3. Ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy được sử dụng cho các nội dung sau:
A) Hoạt động thường xuyên của lực lượng Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy;
B) Trang bị, đổi mới và hiện đại hoá phương tiện phòng cháy và chữa cháy và cơ sở vật chất kỹ thuật; nghiên cứu khoa học và công nghệ về phòng cháy và chữa cháy theo quy định.
Điều 47. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp
1. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy ở địa phương và có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
A) Ban hành các quy định về phòng cháy và chữa cháy tại địa phương;
B) Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy tại địa phương; xử lý hành chính các hành vi vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy theo thẩm quyền;
C) Hướng dẫn, chỉ đạo tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng cháy và chữa cháy cho nhân dân, xây dựng phong trào quần chúng phòng cháy và chữa cháy;
D) Đầu tư ngân sách cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy; trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy;
Đ) Quy hoạch địa điểm, đề xuất cấp đất và xây dựng doanh trại cho lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy;
E) Chỉ đạo việc xây dựng và thực tập phương án chữa cháy cần huy động nhiều lực lượng, phương tiện tham gia;
F) Chỉ đạo tổ chức chữa cháy và khắc phục hậu quả vụ cháy;
G) Thống kê, báo cáo ủy ban nhân dân cấp trên, Chính phủ và Bộ Công an về phòng cháy và chữa cháy.
2. Uỷ ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy ở địa phương và có nhiệm vụ cụ thể sau:
A) Chỉ đạo, kiểm tra và tổ chức việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy tại địa phương; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy chữa cháy đối với khu dân cư; xử lý hành chính các hành vi vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy theo thẩm quyền;
B) Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, giáo dục pháp luật, kiến thức về phòng cháy và chữa cháy, xây dựng phong trào quần chúng phòng cháy và chữa cháy;
C) Tổ chức quản lý đội dân phòng tại các thôn, ấp, bản, tổ dân phố;
D) Đầu tư kinh phí cho hoạt động phòng cháy và chữa cháy; trang bị phương tiện phòng cháy và chữa cháy cho các đội dân phòng theo quy định;
Đ) Bảo đảm điều kiện về thông tin báo cháy, đường giao thông, nguồn nước phục vụ chữa cháy;
E) Chỉ đạo việc xây dựng và thực tập phương án chữa cháy;
G) Tổ chức chữa cháy và giải quyết hậu quả vụ cháy;
H) Thống kê, báo cáo về phòng cháy và chữa cháy lên Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Điều 127L: TCHND-UBND ngày 26/11/03
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân:
A) Đôn đốc, kiểm tra công tác của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và Uỷ ban nhân dân cấp dưới trong việc thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cùng cấp;
B) Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp mình, trừ các vấn đề quy định tại Điều 124 của Luật này;
C) áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến lề lối làm việc; quản lý và điều hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả; ngăn ngừa và đấu tranh chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương;
D) Tổ chức việc tiếp dân, xét và giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban nhân dân;
3. Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức nhà nước theo sự phân cấp quản lý;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp;
5. Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ;
6. Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ ban nhân dân trong phiên họp gần nhất;
Điều 26 Luật Ngân sách Nhà nước Ngày ban hành : 27/12/2002
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp:
1. Lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình theo các chỉ tiêu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;
2. Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp;
3. Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài chính - ngân sách;
4. Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân quyết định theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 25 của Luật này;
5. Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách địa phương;
6. Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn;
7. Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
8. Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều này, còn có nhiệm vụ lập và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề được quy định tại khoản 8 Điều 25 của Luật này;
9. Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều này.
Điều 57/LNS
1. Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm lớn được bố trí trong dự toán chi quý để thực hiện.
2. Chi đầu tư phát triển phải bảo đảm cấp đủ và đúng tiến độ thực hiện trong phạm vi dự toán được giao.
3. Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước dự toán để thực hiện.
7. Ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
Điều 15 NĐ 110 về Văn thư ngày 8/4/2004
Điều 15/ N Đ110 . Giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết văn bản đến
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm chỉ đạo giải quyết kịp thời văn bản đến. Cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức được giao chỉ đạo giải quyết những văn bản đến theo sự uỷ nhiệm của người đứng đầu và những văn bản đến thuộc các lĩnh vực được phân công phụ trách.
2. Căn cứ nội dung văn bản đến, người đứng đầu cơ quan, tổ chức giao cho đơn vị hoặc cá nhân giải quyết. Đơn vị hoặc cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết văn bản đến theo thời hạn được pháp luật quy định hoặc theo quy định của cơ quan, tổ chức.
3. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể giao cho Chánh Văn phòng, Trưởng phòng Hành chính hoặc người được giao trách nhiệm thực hiện những công việc sau:
A) Xem xét toàn bộ văn bản đến và báo cáo về những văn bản quan trọng, khẩn cấp;
B) Phân văn bản đến cho các đơn vị, cá nhân giải quyết;
C) Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết văn bản đến.
Như vậy lỗi để cháy chợ là do Chủ tịch UBND thị xã
KẾT LUẬN VỚI ÔNG HỒ TUẤN VŨ
Nguyên Trưởng ban BQL chợ Nghệ trực tiếp phê duyệt & chỉ đạo Giang, Châu đấu mắc hệ thống điện tại khu ngoài trời chợ Nghệ là không chấp hành biên bản 27/8/2003 hồi 14:00 ký biên bản nội dung trên cùng ông Thiệp với PC 23. Không chấp hành công văn Ngày 08/6/1996 PC23 số 55/PC23 về việc không được xây kiot khu ngoài trời sát dãy nhà tôn A-B-C-D, nên đã xảy ra cháy tại đây. Ông Vũ cũng không chấp hành nghị định 49 của chính phủ ngày 15/8/1996 xử phạt trong lĩnh vực an ninh trật tự về PCCC. Trong biên bản bàn giao ngày 4/4/2005 ...Toàn bộ 8 nội dung trên ông Hồ Tuấn Vũ chịu trách nhiệm điều hành đơn vị trước nhà nước việc số liệu bàn giao trên với ông Vũ Tản Hồng đến 9:30 ngày 4/4/2005 trở đi. Ông Vũ Tản Hồng chụi trách nhiệm phụ trách đơn vị trước nhà nước cấp trên và đơn vị các số liệu phát sinh. Về nội dung: Có văn bản Chi nhánh điện cho sử dụng điện tạm thời là của Khu chợ Thực Phẩm cho thương nhân(nội dung 4 của Kết luận số 24 ngày 26/2/2010).
KẾT LUẬN VỚI PC 23 HÀ NỘI
* Đề nghị làm rõ trách nhiệm của ông Nguyễn Văn Ánh & PC 23 sau khi ban hành công văn 55/PC23 ngày 8/6/1996 về việc không cho xây dựng nhà chợ khu ngoài trời vì không đảm bảo an toàn về PCCC. Song UBND thị xã & BQL không chấp hành cũng không có biện pháp gì?
Ngày 10/8/1984 PC 23 kiến nghị BQL chợ xây 4 trạm bơm, ngày 12/8/1994 PC23 có công văn 83/PC23 gửi chủ tịch UBND thị xã( BL 695)..nhưng thị xã chỉ xây 2 trạm bơm, ngày 23/6/2003 PC23 có công văn 85/PC 23 gửi Chủ tịch UBND thị xã...ngày 27/8/2003 PC23 mời ông Phùng Văn Thiệp - PCT UBND thị xã, ông Thiệp nói đã giao cho các cơ quan chức năng thực hiện và sẽ thường xuyên chỉ đạo. Xong đến khi chợ cháy chưa làm gì?
* PC 23 đã không thực hiện thẩm quyền theo điều 19-20-21/NĐ35, điều 9-10-11 của thông tư 04/TT/BCA ngày 31/3/2004, NĐ 123/NĐ ngày 5/10/2005 về xử phạt PCCC
* Phương án chữa cháy của PC23 không đảm bảo như khi thực tập nên không cứu được chợ cháy...
*.Việc xây dựng 2 trạm bơm cứu hỏa theo đề nghị của PC23 luôn được lãnh đạo UBND thị xã ủng hộ(giả dối), Nhưng từ tháng 1/2005(cáo trạng 87 ghi tại thời điểm tháng 4/2005 UBND tỉnh Hà Tây đã phê duyệt xây dựng chợ Nghệ mới... (UBND tỉnh Hà Tây đã đồng ý chủ trương cho UBND thị xã xây dựng lại chợ Nghệ cũ đã xuống cấp, không đảm bảo các yêu cầu về PCCC văn bản của ai, ngày nào...BQL không được phổ biến, đề nghị công bố và công khai bút lục 457;703;704 với chủ tịch Thiệp). ....Nên việc đầu tư trang thiết bị PCCC chỉ là thay thế xử lý những hư hỏng và những thiết bị thông thường? Tại sao sau đó nhiều tháng... công văn BQL nêu như tờ trình 01/7/2005 lại không nêu ý kiến trả lời trên hay khi đã cháy thì Chủ tịch lý sự quanh co dối trá trước Cơ quan CSĐT-CA Hà Tây
* Và nguyên nhân cháy chợ Nghệ là do chập điện ở khu chợ ngoài trời nơi không có sơ đồ thiết kế cũng như không được nghiệm thu của các cơ quan chức năng, nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự đối với ông Phùng Văn Thiệp là có cơ sở: Ngược lại ngày 27/8/2003 hồi 14:00 các ông Phùng Văn Thiệp & Hồ Tuấn Vũ - Nguyên trưởng ban quản lý chợ đã ký với PC 23 là có lỗi 240-285 BLHS:
KẾT LUẬN VỚI ÔNG NGUYỄN VĂN ẤT
Đội trưởng đội PCCC chợ Nghệ hành vi trên có dấu hiệu của tội: Vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy. Tuy nhiên bản thân Ất không có chuyên môn hiểu biết gì về điện, nên Ất chỉ quản lý Giang & Châu về mặt hành chính, còn việc đấu mắc điện tại khu ngoài trời chợ Nghệ là do Giang & Châu theo sự chỉ đạo của Vũ. Mặt khác ẤT không thừa nhận Giang, Châu 33 đơn xin mắc điện của các hộ khu ngoài trời cho ẤT, để ẤT chuyển lên cho Vũ và ngày 18/12/2005 chợ Nghệ bị cháy thì toàn bộ tài liệu của BQL chợ Nghệ đều bị cháy nên Cơ quan điều tra không thu thập được 33 đơn này. Vì vậy, Cơ quan CSĐT-CA TP Hà Nội xét thấy không có đủ căn cứ vững chắc để khởi tố xử lý đối với Nguyễn Văn Ất về tội: Vi phạm quy định phòng cháy chữa cháy.
Về thông báo số 02 ngày 21/11/2005 về thay cáp điện lớn hơn chống quá tải của Chi nhánh điện Sơn Tây, đ/c Nguyễn Văn Ất có ký nhận còn sau đó được chuyển đến đâu, ai lưu giữ thì tôi không rõ vì tôi không nhận được, nếu nhận được tôi đã báo cáo UBND và Chi nhánh ngay(mặc dù trước đó đã có nhiều báo cáo như công văn chuyên về PCCC số 25/BQL ngày 13/4/05 hoặc TTr 41/BQL ngày 1/7/05...(Theo KL điều tra bổ sung ngày 19/11/2007 của PC14 số 189 và CTr 87a ngày 20/12/2007/ VKS thị xã ).
Kết luận này: Không đúng với quyết định số 01 ngày 18/8/1997 do ông Hồ Tuấn Vũ -Trưởng ban BQL chợ Nghệ của BQL chợ Nghệ ban hành quy chế làm việc; cũng như không thực hiện đúng điều 7-8 pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/2/1998 và NĐ35/PCCC. Hiện tài liệu của tổ PCCC vẫn còn lưu giữ chứ không kết luận của PC 14:
KẾT LUẬN VỚI ÔNG NGUYỄN NHƯ HẢI
... Nhân viên đội PCCC, là người đóng cầu dao điện kinh doanh của chợ Nghệ ngày 18/12/2005 gây cháy, là nơi không có sơ đồ thiết kế được phê duyệt cũng như không được nghiệm thu của cơ quan chức năng trước khi sử dụng. Trách nhiệm chính thuộc về Ban PCCC và thợ điện của chợ Nghệ. Do vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý về hình sự với ông Nguyễn Như Hải là không đúng vì:.
Theo quy chế làm việc của BQL và QĐ Số 76 ngày 01 tháng 11 năm 2005 Thành lập tổ 5... ông Hải chấp hành nghiêm túc sự phân công của tổ trưởng, đảm bảo tốt quy chế làm việc nghiêm cấm việc tham ô xâm tiêu tiền của nhà nước. Có ý thức xây dựng tổ và BQL thực hiện tiêu chí của chợ Nghệ là: “ An toàn – Vệ sinh – Văn minh – Hiệu quả”.
Viên chức hoặc hợp đồng lao động do ý thức kém, thiếu trách nhiệm trong làm việc, cố ý không chấp hành sự phân công của tổ trưởng và BQL, hoặc đến cơ quan làm những việc không được tổ trưởng phân công, tổ họp và gửi biên bản lên BQL để xử lý theo thẩm quyền. Ông Hải đã vi phạm quyết định 76 trên với ông Ất và BQL cũng như quy định của pháp luật(BQL, Ban chỉ huy PCCC và tổ 5 không phân công ông Hải đóng điện, việc tự ý làm là vi phạm quy định trên và luật PCCC).
VỀ NGUYÊN NHÂN CHÁY CHỢ VÀ GIÁM ĐỊNH
Như giải thích của viện khoa học hình sự ngày 29/9/2006...Nguyên nhân nằm trong khả năng sau: đây là nhận định chủ quan, thiếu cơ sở: Do vỏ cách điện bị lão hóa...do hiện trường bị xáo trộn hoàn toàn nên không đủ cơ sở để kết luận chính xác nguyên nhân dẫn đến chập mạch điện nói trên. Để làm sáng tỏ nội dung trên theo điều 193 BLTTHS cần có mặt của người giám định, thực hiện điều 32-33 pháp lệnh GĐTP ngày 11/10/2004, chúng tôi đề nghị giám định lại nội dung trên. Vì nếu không kết luận đúng nguyên nhân cháy thì sẽ oan sai, việc khởi tố là vi phạm trình tự TTHS.
VỀ ĐỐI CHẤT VÀ PHẢN BIỆN
1/ Theo công văn số 80/KSĐT ngày 01/7/2008 do bà Bùi Thị Tiền: Chúng tôi đề nghị trực tiếp đối chất với các cơ quan, tổ chức và cá nhân sau: UBND thị xã Sơn Tây đương nhiệm, Điện lực Sơn Tây; PC23 Hà Nội; các ông Phùng Văn Thiệp, Hồ Tuấn Vũ, Nguyễn Văn Ất, Nguyễn Văn Ánh PC23, Nguyễn Như Hải để làm rõ trách nhiệm trong cáo trạng 87 đã nêu không đúng sự thật và không nêu hoặc bao che cho một số người ví như ông Vũ “mọi hoạt động của chợ đã bàn giao cho Vũ Tản Hồng”; ông Thiệp “nhưng không kiểm tra kết quả đến đâu” thực tế hai ông đã vi phạm NĐ 35/PCCC và điều 285 BLHS.
2/ Đề nghị quý Viện: Theo điều 10/BLTTHS về. Xác định sự thật của vụ án. Đề nghị các Cơ Quan điều tra cho kết luận về trách nhiệm cá nhân, tổ chức phần Chữa cháy và bảo vệ tài sản sau cháy tại chợ Nghệ ngày 18/12/2005. Thực hiện điều 36/BLTTHS. Theo nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát trong vụ án này, nhằm đảm bảo khách quan những phản biện và cung cấp chứng cứ trên .
Điều 9. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này
Điều 193/BLTTHS. Sự có mặt của người giám định
1. Người giám định tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập.
2. Nếu người giám định vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử. Pháp lệnh Giám định tư pháp Ngày 11/10/2004
Điều 32/PL. Giám định bổ sung
1. Việc giám định bổ sung được thực hiện trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.
2. Việc giám định bổ sung có thể do người giám định tư pháp trước đó hoặc người giám định tư pháp khác thực hiện.
Điều 33/PL. Giám định lại
1. Việc giám định lại được thực hiện theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong trường hợp có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại có thể do người đã giám định trước đó hoặc do người giám định khác thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng.
2. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một vấn đề cần giám định thì việc giám định lại lần thứ hai phải do Hội đồng giám định thực hiện. Hội đồng giám định do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quản lý về lĩnh vực cần giám định quyết định thành lập. Hội đồng giám định gồm có ít nhất ba thành viên là những người có trình độ chuyên môn cao và có uy tín trong lĩnh vực cần giám định.
Điều 159. Giám định bổ sung hoặc giám định lại
1. Việc giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã được kết luận trước đó.
2. Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại phải do người giám định khác tiến hành.
3. Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại được tiến hành theo thủ tục chung quy định tại các điều 155, 156, 157 và 158 của Bộ luật này.
Điều 107.BLTTHS:... Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: ...khoản 2/7 Hành vi không cấu thành tội phạm;
Điều 8:BLHS4/4 Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Điều 25 BLHS: 1/3 Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Trưởng ban Vũ Tản Hồng
________________________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét