Hôm nay chủ nhật ngày 21/3/2010, anh Mỹ gọi nhờ đánh máy mấy bài thơ, văn của dòng họ Nguyễn Viết dưới Tích Giang-Phúc thọ. Nhớ hôm qua tối 21:00PM các cháu nhà bác Viển đã đi thăm bà Mậu, bà Khâm cho phải đạo...trong khi mình vào bầm 15 PĐC. chiều nay lát phần rãnh nước chảy sang cụ An và giữa sân nhà cho bằng phẳng, ngoài trời mưa ẩm
Bầm đi ngủ, lát nữa về lấy nước sẽ đánh thức người dậy, trưa nay phương vào 3/12 Xuân Khanh tiễn con gái cậu Thụ về nơi ANCC vì bị baanhj từ nhỏ...
Chiều nay chắc cháu chiến cũng về tới nhà, hôm qua các cháu nhà bác Viển đã sang chơi bên nhà ông Khâm & bà Mậu...
Thứ Bẩy, 20/03/2010 - 10:23
Để đơn thư quá hạn, nỗi oan của dân có “vô hiệu”?
(Dân trí) - Câu hỏi các đại biểu Quốc hội dành cho Chánh án TAND tối cao Trương Hòa Bình trong buổi chất vấn chiều 19/3 “xoáy” vào trách nhiệm của những người làm công tác xét xử, vấn đề đạo đức cũng như những biểu hiện tiêu cực trong ngành tòa án.
Vũ Quang Hải (Hưng Yên) “bóc” báo cáo của Chánh án Trương Hòa Bình về tỷ lệ án hủy, sửa trong lĩnh vực đất đai tới 11,5% trong khi mỗi năm tòa tiếp nhận hơn 20.000 vụ. Ông Hải quy đổi, như vậy, mỗi năm có khoảng 2.000 án phải hủy, sửa riêng về lĩnh vực này? Có nguyên nhân từ ý thức chủ quan của thẩm phán khi giải quyết các vụ việc?
Người đứng đầu ngành tòa án xác nhận, đây là vấn đề đã không ít lần phải giải trình. Ông Bình thẳng thắn cho rằng, không loại trừ ý thức chủ quan của thẩm phán… cố tình sai. Việc sai này thường được bao biện với lý do “khó” vì mọi phán quyết là dựa trên các chứng lý các bên đương sự tự chứng minh. Nhưng theo ông Bình, nếu chứng cứ được cung cấp không rõ ràng thì cũng không ai cấm thẩm phán tự xác minh thay vì việc dựa vào đó để xử sai.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận “xoáy” tiếp vào vấn đề ý thức chủ quan của những người cầm cân nảy mực. Ông Thuận nêu con số, trong số gần 40% đơn thư khiếu nại giám đốc thẩm được giải quyết đã có hàng ngàn vụ kháng nghị mà nguyên nhân do các cấp xét xử dưới vi phạm thủ tục pháp luật trong việc sử dụng chứng cứ chứng minh. Ông Thuận đặt câu hỏi, do trình độ thẩm phán yếu hay vì… cố ý?
Chánh án Trương Hòa Bình tiếp tục “chia sẻ” về con số án sai, hủy “đúng là không thể yên tâm”. Ông Bình gật đầu: “Lý do “chủ quan” về phía thẩm phán, thực ra chắc vẫn có cho nên mới có hiện tượng thẩm phán bị xử lý hình sự”. Xác nhận có tình trạng tiêu cực trong đội ngũ thẩm phán nhưng ông Bình vẫn đánh giá việc này không có tính phổ biến. Người đứng đầu ngành tòa án quả quyết không can thiệp, “đỡ đòn” giúp cấp dưới mà chủ trương sẽ xử lý nghiêm. Còn với những quan tòa có án bị hủy, sửa thì kiên quyết “xét lại” việc tái bổ nhiệm.
Tự biện về con số mới chỉ 40% đơn thư khiếu nại giám đốc thẩm được giải quyết, ông Bình cho rằng, với số lượng thẩm phán, cán bộ tòa án hiện nay thì cả đội ngũ làm việc hết công suất cũng chỉ giải quyết được khoảng 1/3 yêu cầu công việc. “Vậy mà thống kê tòa tối cao đã giải quyết được 40%, nhiều khi chúng tôi cũng không hiểu nổi làm sao sức mình có thể làm được vậy. Chúng tôi đã phải làm thêm cả ngày thứ 7, chủ nhật, làm việc phờ phạc”.
Đại biểu Vũ Quang Hải “dồn” tiếp nhân việc ông Bình than khó: “Nói tình hình thiếu cán bộ, một thẩm phán phải giải quyết khoảng 150 vụ việc/năm, trung bình 2 ngày/vụ. Nhưng án luôn tồn đọng, kéo dài, đơn thư khiếu nại cũng “om” đến lúc hết thời hiệu giải quyết. Án vô hiệu nhưng nỗi oan của người dân có vô hiệu?”.
Chánh án tòa tối cao “vớt vát”: “Đáng mừng thời gian gần đây số đơn khiếu nại giám đốc thẩm mà đến khi sờ tới đã vô hiệu không phát sinh mới, nếu có là tồn lại từ những năm trước. Chúng tôi sẽ kiểm điểm, xử lý trách nhiệm với cá nhân để đơn thư quá hạn”.
Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện Trần Thế Vượng “vặc” lại: “Tôi chưa tin. Theo báo cáo của Chánh án, năm 2009 ngành nhận được hơn 6.000 đơn khiếu nại dạng giám đốc thẩm, tái thẩm, cộng với hơn 5.000 đơn từ 2008 chuyển sang trong khi mỗi năm chỉ giải quyết được 40%. Vậy tôi khẳng định chuyển sang năm nay còn không ít đơn của 2007”.
Trước nghi vấn của đại biểu, ông Bình giải trình: thực tế đơn khiếu nại hiện tòa tối cao tiếp nhận để giải quyết mà để quá hạn thì không có vì còn thời hạn 3 năm để giải quyết. Nhưng những vụ việc còn tồn từ nhiều năm trước thì có nhưng đó là đều đã hết thời hiệu, không tiếp tục xem xét.
Đại biểu Nguyễn Đình Quyền (thành viên của Ủy ban Tư pháp) lại nhìn nhận vấn đề ở khía cạnh trách nhiệm cá nhân của Chánh án TAND tối cao với việc giải quyết đơn thư khiếu nại giám đốc thẩm. Theo đó, ông Quyền đặt vấn đề, theo luật Chánh án phải trực tiếp xem xét, không thể ủy quyền cho Phó chánh án hay thẩm phán tòa chuyên trách làm thay.
Ông Bình “kêu trời”: “Nếu tất cả đơn khiếu nại đều phải do chánh án xem xét hết thì mỗi năm tôi phải giải quyết 5.000-6.000 đơn, không thể làm nổi. Mỗi ngày cật lực tôi cũng chỉ nghiên cứu được 2-3 vụ án đã qua các tòa chuyên trách xem xét rồi đề nghị để chánh án quyết định”. Dù vậy, ông Bình khẳng định vẫn có cơ chế giám sát quá trình xử lý của tòa chuyên trách và xin được đại biểu thông cảm.
Cập nhật lúc 06:09' 20/03/2010 (GMT+7)
Lửa thiêu rụi chợ tạm Phú Túc, hàng trăm tiểu thương trắng tay
Như Gia Lai Điện tử đưa tin, khoảng 19 giờ ngày 18- 3, ngọn lửa đột ngột bốc lên từ một sạp hàng giữa chợ Phú Túc, huyện Krông Pa (Gia Lai) sau đó lan rộng ra các gian hàng bên cạnh. Hơn 3 giờ sau, ngọn lửa bùng phát dữ dội, bao trùm toàn bộ khu chợ rộng hơn 4.050m2, thiêu rụi hoàn toàn hơn 200 sạp hàng, thiệt hại hơn 11 tỉ đồng. Những tiểu thương trong chốc lát bị đẩy vào cảnh trắng tay, đối mặt với nợ nần.
Coi thường “Bà hỏa”
Để phục vụ xây dựng mới chợ thị trấn Phú Túc, tháng 9-2007 UBND huyện Krông Pa đã cho thành lập khu chợ tạm nằm trên khu đất trống phía sau trụ sở cũ của UBND thị trấn Phú Túc. Chợ hiện có khoảng 280 hộ kinh doanh trên diện tích rộng 4.050m2. Do là chợ tạm nên mọi thứ ở chợ rất là… tạm bợ. Các dãy lán trại dựng tạm làm sạp hàng sát rịt nhau, lối vào chợ có ở cả 3 phía (vì chợ không có cổng chính), phía còn lại giáp với mép hồ cá đã cạn nước. Các lối đi trong chợ chỉ đủ cho một người luồn lách, nên khi xảy ra cháy, người và phương tiện không thể di chuyển vào trong chợ để ứng cứu.
Toàn cảnh lụi tàn của chợ tạm Phú Túc sau vụ cháy. Ảnh: Đức Phương
Mặt khác, do là chợ tạm, các gian hàng thưng bằng các tấm cót tre, ván gỗ là vật dụng dễ bắt lửa. Hệ thống điện do người dân tự kéo vào từng sạp hàng với nhiều nguồn khác nhau chằng chịt như mạng nhện, rất khó để cách ly, ngắt nguồn cháy nổ. Ý thức của người dân về phòng cháy chưa cao, thường ngày do vẫn còn tình trạng các hộ kinh doanh thắp nhang, đốt vàng mã và đun nấu tại chợ. Trong khi đó, hệ thống phòng cháy chữa cháy tại chỗ không đáp ứng được yêu cầu. Ban quản lý chợ chỉ có được khoảng 20 bình chữa cháy mi ni và 1 máy bơm, 1 bể nước khoảng 10m3 tận dụng từ bể nước công trình vệ sinh trụ sở cũ của UBND thị trấn... Vì thế, đêm 18-3, khi đám chảy xảy ra lực lượng chữa cháy tại chỗ dù rất cố gắng nhưng bằng phương tiện thô sơ họ đã không thể dập tắt đám cháy.
Cho đến sáng 19-3, cả khu chợ rộng 4.050m2 đã bị ngọn lửa thiêu rụi tan hoang, nhiều đám cháy âm ỉ vẫn bốc khói mù mịt, bốc mùi khét lẹt. Theo những người tham gia chữa cháy cho biết, sở dĩ đám cháy không được dập tắt kịp thời là do các lối đi trong chợ quá hẹp nên họ không thể tiếp cận đám cháy; trong chợ có nhiều gian hàng bán các mặt hàng tạp hóa khô cùng với quẹt gas, bình xịt muỗi, bình gas mini… Vì vậy khi ngọn lửa bùng lên, những chất này đã phát nổ, bốc cháy dữ dội gây cản trở lực lượng chữa cháy.
Đến sáng 19-3, ngọn lửa vẫn còn âm ỉ cháy. Ảnh: Đức Phương
Ông Nguyễn Huy Lương- Phó Ban quản lý chợ tạm Phú Túc nhà đối diện với chợ cho biết: “Hơn 19 giờ, tôi vừa cúng giỗ tại nhà xong chưa kịp ngồi vào mâm cổ thì thấy khói bốc lên từ giữa chợ. Chạy ra khỏi nhà đã thấy lửa bốc lên ngùn ngụt, tôi chỉ kịp đến cúp cầu dao hệ thống điện chính của chợ thì ngọn lửa đã loang rộng, ngùn ngụt cháy kèm theo nhiều tiếng nổ lớn. Tôi liền gọi điện thoại báo cho Công an huyện Krông Pa và 114. Thời tiết nắng nóng kéo dài kết hợp với gió mạnh càng làm cho ngọn lửa bùng phát dữ dội hơn. Phải hơn 3 giờ sau khi lực lượng Cảnh sát PCCC ở thị xã Ayun Pa huy động 2 xe chữa cháy xuống đến nơi, ngọn lửa mới được khống chế, không để cháy lan sang mấy chục hộ dân dọc đường Kpă Tit phía đối diện chợ".
Một số người dân chứng kiến đám cháy cho biết khi xảy ra cháy gần chục hộ dân người Chăm đã dựng nhà tạm cư trú và buôn bán lâu nay giữa lòng chợ hốt hoảng bung chạy thoát ra ngoài. Điều này cho thấy công tác quản lý người ra vào chợ khi đêm xuống của Ban quản lý chợ chưa thật sự chặt chẽ.
Trung tá Trần Văn Tuấn- Phó Trưởng phòng Cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy Công an tỉnh cho biết: Qua khám nghiệm hiện trường vụ cháy, bước đầu xác định ngọn lửa bùng phát từ gian hàng tạp khô của bà Nguyễn Thị Lan sinh năm 1958 trú tại tổ dân phố 7 thị trấn Phú Túc, sau đó lan rộng toàn bộ chợ tạm, thiêu rụi 200 gian hàng. Nguyên nhân vụ cháy đang được điều tra làm rõ.
Tiểu thương khốn đốn
Nhìn khuôn mặt phờ phạc của bà Trần Thị Đượm ở tổ dân phố 5, thị trấn Phú Túc đang cố bới đống tro tàn, nhặt nhạnh những gì còn sót lại sau cơn hỏa hoạn, ai cũng xót thương. Nhà có 6 miệng ăn, tất cả đều trông chờ vào gian hàng này để mưu sinh qua ngày, thế mà trong chốc lát tất cả đã biến thành tro bụi. Gạt những giọt nước mắt lăn dài trên má, chị than thở: “Khi nghe tin có cháy ở chợ, tôi và mọi người trong gia đình chạy ra, hy vọng cố vớt vát được chút gì, nhưng ngọn lửa cháy to quá, chỉ biết nhìn khối tài sản quý giá nhất của gia đình đi theo ngọn lửa. Tôi kinh doanh ở đây cũng khá lâu rồi, phải vay ngân hàng 7 triệu đồng, vay của người thân để kinh doanh và nợ của bạn hàng… giờ thì trắng tay, biết làm sao bây giờ?”.
Lực lượng chức năng điều tra hiện trường vụ cháy chợ. Ảnh: Đức Phương
Trong số 200 gian hàng bị lửa thiêu rụi, thiệt hại nặng nề nhất là mấy chục hộ bán hàng vải phía Đông chợ tạm. Anh Lê Minh Hoàng ở tổ dân phố 1, thị trấn Phú Túc bần thần nói: “Tôi mới nhập hàng từ Thành phố Hồ Chí Minh về buổi chiều, đến tối lửa thiêu cháy hết luôn. Hơn 200 triệu đồng tiền quần áo, vải vóc chưa bán được đồng nào giờ đã thành tro bụi. Nhiều hộ khác kinh doanh hàng vải, quần áo ở đây bị lửa thiêu rụi toàn bộ hàng hóa trị giá hàng trăm triệu đồng”.
Thiệt hại của vụ cháy càng nặng nề hơn vào thời điểm hiện tại do hầu hết tiểu thương trong chợ đều tăng cường nguồn vốn dịp sau Tết Nguyên đán, nhập hàng về khối lượng lớn để bán cho người dân vừa trúng đậm vụ mì. Phó trưởng ban Quản lý chợ Phú Túc- ông Nguyễn Huy Lương ước tổng thiệt hại vụ cháy hơn 11 tỉ đồng. Vụ cháy đã làm hàng trăm tiểu thương trở nên trắng tay, không ít người bị ngất xỉu phải cấp cứu tại Bệnh viện Krông Pa.
Sự việc càng đau lòng hơn khi trong cơn lửa dữ dội, vẫn có một số kẻ xấu đã lợi dụng đám cháy và sự hoảng loạn của người dân để nhảy vào “hôi của”. Nhiều người dân phản ánh, đêm 18-3, có khá nhiều xe ô tô Hoa Mai lùi sát vào hông chợ phía đường Hai Bà Trưng và Quang Trung chờ khi các tiểu thương cứu hàng hóa, tài sản của mình từ trong chợ ra tới đường thì bọn chúng lấy trộm bỏ lên xe chạy mất.
…Điều quan ngại là dù Ban Quản lý chợ thị trấn Phú Túc và cán bộ đội phòng cháy- chữa cháy Công an tỉnh đã nhiều lần nhắc nhở các tiểu thương mua bảo hiểm cháy nổ nhưng họ không tham gia. Chính vì thế trong vụ cháy này, hơn 200 tiểu thương bị thiệt hại hoàn toàn hàng hóa sẽ không nhận được sự đền bù.
Mặt khác, qua tìm hiểu, được biết các hộ tiểu thương trên đều phải vay mượn khắp nơi để có vốn kinh doanh, nhưng giờ đây toàn bộ hàng hóa bị thiêu rụi, họ đang phải đối diện với những khoản nợ mới khó có khả năng thanh toán. Vì thế, sự trợ giúp kịp thời của chính quyền địa phương và các bạn hàng đang cần thiết hơn lúc nào hết để các tiểu thương tái ổn định cuộc sống, kinh doanh.
ÔngTrần Văn Mạnh- Chủ tịch UBND huyện Krông Pa cho biết: UBND huyện đang chỉ đạo Ban quản lý chợ và các ngành chức năng gấp rút thống kê thiệt hại của các tiểu thương sau vụ cháy chợ để báo cáo UBND tỉnh tìm biện pháp cứu giúp họ. Trước mắt, UBND huyện sẽ trích ngân sách hỗ trợ cho các hộ có sạp hàng bị cháy hoàn toàn mà có nhu cầu dựng lại sạp hàng để tiếp tục kinh doanh, mỗi hộ 2 triệu đồng; động viên người dân ổn định cuộc sống. Huyện sẽ đề nghị các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn tìm cách khoanh nợ cho các hộ bị thiệt hại do cháy chợ và tiếp tục cho họ vay vốn để tái kinh doanh.
Đức Phương
P.Thảo
CHÍNH PHỦ
______
Số: 18/2010/NĐ-CP CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_______________________________________
Hà Nội, ngày 05 tháng 3 năm 2010
NGHỊ ĐỊNH
Về đào tạo, bồi dưỡng công chức
________
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008;
Căn cứ Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Nghị định này quy định về chế độ, nội dung, chương trình, tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức.
2. Nghị định này áp dụng đối với công chức quy định tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ quy định những người là công chức và công chức cấp xã quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Điều 2. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức
1. Trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
2. Góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại.
Điều 3. Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng
1. Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị.
2. Bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
3. Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng.
4. Đề cao vai trò tự học và quyền của công chức trong việc lựa chọn chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm.
5. Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
Điều 4. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng
1. Hướng dẫn tập sự đối với công chức trong thời gian tập sự.
2. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức.
3. Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.
4. Bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu kiến thức, kỹ năng chuyên ngành hàng năm (thời gian thực hiện là 01 tuần/01 năm; một tuần được tính bằng 05 ngày học, một ngày học 08 tiết).
Thời gian tham gia các khoá bồi dưỡng khác nhau được cộng dồn.
Điều 5. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ sau đây được hiểu như sau:
1. Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học.
2. Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc.
3. Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức.
4. Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý.
5. Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao.
Chương II
NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH,
CHỨNG CHỈ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
Điều 6. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
1. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước:
a) Lý luận chính trị;
b) Chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành;
d) Tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc.
2. Nội dung bồi dưỡng ở ngoài nước:
a) Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý chuyên ngành;
b) Kiến thức, kinh nghiệm hội nhập quốc tế.
Điều 7. Các loại chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng và thời gian thực hiện
1. Loại chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch thực hiện trong thời gian tối đa là 08 tuần, bao gồm:
a) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch cán sự và tương đương;
b) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên và tương đương;
c) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính và tương đương;
d) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương.
2. Loại chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý thực hiện trong thời gian tối đa là 04 tuần, bao gồm:
a) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp phòng và tương đương;
b) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp huyện và tương đương;
c) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp sở và tương đương;
d) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng lãnh đạo cấp vụ và tương đương;
đ) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng Thứ trưởng và tương đương.
3. Loại chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành thực hiện trong thời gian tối đa là 02 tuần, bao gồm:
a) Các chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chuyên ngành;
b) Các chương trình, tài liệu bồi dưỡng cập nhật theo vị trí việc làm.
Điều 8. Yêu cầu đối với việc biên soạn chương trình, tài liệu
1. Chương trình, tài liệu được biên soạn căn cứ vào tiêu chuẩn của ngạch công chức, chức vụ lãnh đạo, quản lý và yêu cầu nhiệm vụ.
2. Nội dung các chương trình, tài liệu phải bảo đảm kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng thực hành, tính liên thông, không trùng lặp.
3. Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng phải được bổ sung, cập nhật phù hợp với tình hình thực tế.
Điều 9. Quản lý chương trình đào tạo, bồi dưỡng
1. Bộ Nội vụ quản lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
3. Nhiệm vụ quản lý chương trình gồm:
a) Tổ chức biên soạn;
b) Tổ chức thẩm định, đánh giá;
c) Phê duyệt, ban hành và hướng dẫn thực hiện.
Điều 10. Tổ chức biên soạn tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
1. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, cấp sở, cấp vụ và tương đương trở lên theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành.
2. Học viện, Trường, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng) tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự và tương đương, ngạch chuyên viên và tương đương, ngạch chuyên viên chính và tương đương; tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành; tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
3. Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức biên soạn tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự và tương đương, ngạch chuyên viên và tương đương, ngạch chuyên viên chính và tương đương, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng theo chương trình do Bộ Nội vụ ban hành; phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ biên soạn tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
Điều 11. Tổ chức thẩm định chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
1. Cơ quan quản lý chương trình, biên soạn tài liệu tổ chức thẩm định chương trình, tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý quy định tại khoản 1, 2 Điều 7 Nghị định này.
2. Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thủ tục đánh giá chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định này trước khi đưa vào sử dụng.
3. Bộ Nội vụ hướng dẫn trình tự, thủ tục, nội dung thẩm định, đánh giá chương trình, tài liệu quy định tại khoản 1, 2 Điều này.
Điều 12. Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức
1. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cấp chứng chỉ các chương trình đào tạo, bồi dưỡng được giao thực hiện.
2. Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức gồm:
a) Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức;
b) Chứng chỉ chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý;
c) Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành.
3. Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, Chứng chỉ chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là một trong những căn cứ khi xem xét điều kiện bổ nhiệm vào ngạch công chức hoặc bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý; Chứng chỉ chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành là một trong những căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong năm của công chức.
4. Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức được dùng theo mẫu chung thống nhất trong cả nước.
Bộ Nội vụ quy định mẫu và hướng dẫn việc sử dụng chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Chương III
TỔ CHỨC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ GIẢNG VIÊN
Mục 1
TỔ CHỨC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
Điều 13. Phân công tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
1. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh có nhiệm vụ:
a) Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương;
b) Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, cấp sở, cấp vụ và tương đương trở lên;
c) Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác do cấp có thẩm quyền giao;
d) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp sư phạm cho giảng viên Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
2. Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ:
a) Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và tương đương;
b) Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
c) Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã và các đối tượng khác do cấp có thẩm quyền giao.
3. Các Học viện, Trường, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nhiệm vụ:
a) Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và tương đương;
b) Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
c) Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã theo chuyên môn nghiệp vụ và các đối tượng khác do cấp có thẩm quyền giao.
Điều 14. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, bồi dưỡng bằng phương pháp tích cực, phát huy tính tự giác, chủ động và tư duy sáng tạo của người học, tăng cường trao đổi thông tin, kiến thức và kinh nghiệm giữa giảng viên với học viên và giữa các học viên.
Điều 15. Hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
1. Tập trung.
2. Bán tập trung.
3. Vừa làm vừa học.
4. Từ xa.
Điều 16. Đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
1. Đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm cung cấp thông tin về mức độ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức sau khi đào tạo, bồi dưỡng.
2. Đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, trung thực.
3. Nội dung đánh giá:
a) Mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình với yêu cầu tiêu chuẩn ngạch, chức vụ lãnh đạo, quản lý và yêu cầu vị trí việc làm;
b) Năng lực của giảng viên và sự phù hợp của phương pháp đào tạo, bồi dưỡng với nội dung chương trình và người học;
c) Năng lực tổ chức đào tạo, bồi dưỡng của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng;
d) Mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng của công chức và thực tế áp dụng vào việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
4. Việc đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng do cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện hoặc thuê cơ quan đánh giá độc lập.
Mục 2
GIẢNG VIÊN
Điều 17. Giảng viên đào tạo, bồi dưỡng
1. Giảng viên trong nước: giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, giảng viên kiêm nhiệm, người được mời thỉnh giảng.
2. Giảng viên nước ngoài.
Điều 18. Chính sách đối với giảng viên
1. Chế độ, chính sách đối với giảng viên Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh do cấp có thẩm quyền quy định.
2. Giảng viên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được hưởng chế độ, chính sách như giảng viên đại học.
3. Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với giảng viên cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và giảng viên nước ngoài.
Chương IV
QUYỀN LỢI, TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG CHỨC
VÀ KINH PHÍ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
Điều 19. Trường hợp công chức được cử đi đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học
1. Cơ quan, đơn vị được tổ chức, sắp xếp lại.
2. Công chức đã được bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ lãnh đạo mà chưa đáp ứng tiêu chuẩn trình độ đào tạo theo quy định.
Điều 20. Điều kiện để công chức được cử đi đào tạo sau đại học
1. Có thời gian công tác từ đủ 5 năm trở lên.
2. Chuyên ngành đào tạo phù hợp với vị trí việc làm.
3. Không quá 40 tuổi tính từ thời điểm được cử đi đào tạo.
4. Có cam kết tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, công vụ sau khi hoàn thành chương trình đào tạo trong thời gian ít nhất gấp 03 lần thời gian đào tạo.
5. Có ít nhất 03 năm liên tục hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Điều 21. Quyền lợi của công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng
1. Công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng trong nước:
a) Được cơ quan quản lý, sử dụng bố trí thời gian và kinh phí theo quy định;
b) Được tính thời gian đào tạo, bồi dưỡng vào thời gian công tác liên tục;
c) Được hưởng nguyên lương, phụ cấp trong thời gian đào tạo, bồi dưỡng;
d) Được biểu dương, khen thưởng về kết quả xuất sắc trong đào tạo, bồi dưỡng.
2. Công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài được hưởng quyền lợi quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 22. Trách nhiệm thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng
1. Thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định tại Điều 4 Nghị định này.
2. Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế đào tạo, bồi dưỡng và chịu sự quản lý của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian tham gia khoá học.
Điều 23. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng
Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng công chức bao gồm: ngân sách nhà nước, kinh phí của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cử công chức, của công chức và tài trợ của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Điều 24. Đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng
Công chức đang tham gia khoá đào tạo, bồi dưỡng mà tự ý bỏ học, thôi việc hoặc đã học xong nhưng chưa phục vụ đủ thời gian theo cam kết mà tự ý bỏ việc phải đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng.
Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể Điều này.
Chương V
QUẢN LÝ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
Điều 25. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Nội vụ
1. Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
2. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức trình cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc ban hành theo thẩm quyền; tổ chức, hướng dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sau khi được ban hành; theo dõi, tổng hợp kết quả đào tạo, bồi dưỡng công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3. Xây dựng kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước theo thẩm quyền.
4. Tổng hợp nhu cầu, đề xuất kinh phí đào tạo, bồi dưỡng hàng năm, trung hạn, dài hạn; hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện sau khi được Chính phủ phê duyệt.
5. Quản lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý.
6. Quy định tiêu chuẩn cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
7. Thanh tra, kiểm tra hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức.
8. Tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng trong đào tạo, bồi dưỡng công chức.
9. Hướng dẫn việc tổ chức bồi dưỡng công chức ở ngoài nước bằng nguồn ngân sách nhà nước.
Điều 26. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức thuộc phạm vi quản lý.
2. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định; báo cáo kết quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức hàng năm để Bộ Nội vụ theo dõi, tổng hợp.
3. Cử công chức đi đào tạo, bồi dưỡng theo thẩm quyền.
4. Tổ chức các khoá bồi dưỡng công chức ở ngoài nước.
5. Tổ chức quản lý và biên soạn các chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc phạm vi trách nhiệm được giao.
6. Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên trong phạm vi thẩm quyền.
7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trong phạm vi thẩm quyền.
Điều 27. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài chính
1. Cân đối, bố trí kinh phí đào tạo, bồi dưỡng hàng năm, trung hạn, dài hạn, trong nước và ở ngoài nước trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2. Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng.
Điều 28. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
1. Xây dựng, ban hành chế độ khuyến khích công chức không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực công tác; bố trí kinh phí bảo đảm hoạt động đào tạo, bồi dưỡng.
2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thuộc phạm vi quản lý.
3. Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định; báo cáo kết quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức hàng năm để Bộ Nội vụ theo dõi, tổng hợp.
4. Tổ chức quản lý và biên soạn chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng trong phạm vi trách nhiệm được giao.
5. Quản lý cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và đội ngũ giảng viên trong phạm vi thẩm quyền.
6. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trong phạm vi thẩm quyền.
Điều 29. Trách nhiệm của đơn vị sử dụng công chức
1. Thực hiện chế độ hướng dẫn tập sự.
2. Đề xuất việc biên soạn và lựa chọn chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với vị trí việc làm của công chức.
3. Tạo điều kiện để công chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng theo quy định.
Chương VI
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 30. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 5 năm 2010.
2. Bãi bỏ Chương III Nghị định số 54/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về chế độ thôi việc, chế độ bồi thường chi phí đào tạo đối với cán bộ, công chức và các quy định trước đây trái với quy định của Nghị định này.
Điều 31. Trách nhiệm thi hành
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính QG;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT,
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, TCCV (10b). N TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
(Đã ký)
Nguyễn Tấn Dũng
ủ Nhật, 21/03/2010, 08:35
Bà Nà: Mùa bê tông hóa
TP - Trên đỉnh Bà Nà mờ sương, TP Đà Nẵng, đang hiện dần một Plaza – khu vui chơi giải trí lớn thứ ba thế giới, và chuẩn bị thêm một làng Pháp (French Town) mang dáng dấp thế kỷ 18-19. Nhưng kèm theo đó là cảm giác bất an, bê tông cốt thép cứ gặm nhấm dần thiên nhiên hoang dã.
Bà Nà, nhìn từ trên cao. Ảnh: Trí Quân
Bê tông hóa - tất cả đã nằm trong tính toán
Khách lên Bà Nà dịp này có thể thấy nhà hàng tại trạm nghỉ chờ cáp treo dưới chân núi đang hoàn thiện những khâu lắp đặt cuối cùng. Trên đỉnh, nhà hàng Morin phục vụ khách Á - Âu hai tầng riêng biệt cũng vừa xong.
Ngoài tuyến cáp treo đạt 2 kỷ lục thế giới từ Suối Mơ nơi chân núi lên ga DeBay khánh thành cách đây tròn 1 năm, tuyến cáp treo mới thay cho cáp treo cũ đưa khách lên ga Morin trên đỉnh núi cũng vừa đưa vào sử dụng cách đây mấy tháng.
Khách sạn Morin 4 sao 54 phòng kiểu Pháp vừa đi vào hoạt động cuối tháng 12-2009, điền vào chỗ những bungalow lợp tôn ngày trước. Chếch quả đồi bên dưới là một công trường đồ sộ. Trên cao, toà nhà 5 tầng đã hiện hình, sát phía dưới một diện tích khổng lồ đã được đào sâu trong nền núi.
Ông Vũ Huy Thắng – GĐ Cty CP dịch vụ Cáp treo Bà Nà (Bà Nà Hills), cho biết, Bà Nà Plaza sẽ là khu hỗn hợp vui chơi giải trí lớn và hiện đại tầm thứ ba thế giới về diện tích và trang thiết bị, gồm 3 tầng hầm đào sâu trong núi và 5 tầng nổi.
Riêng khu vui chơi trong nhà lên tới 25.000 m2, khu vui chơi ngoài trời rộng 5 ha. Dự kiến, Bà Nà Plaza sẽ hoàn thành vào cuối tháng 3-2011, kỷ niệm 36 năm giải phóng Đà Nẵng.
Từ đỉnh Bà Nà nhìn hơi chếch xuống phía tây theo hướng Núi Chúa, một khu đất mênh mang đang được san ủi. Theo ông Thắng, nơi đây sẽ tái hiện một làng Pháp (French Town) mang dáng dấp một khu phố cổ của Pháp từ hồi thế kỷ 18-19, do chính người Pháp thiết kế.
Một dãy phố với trên 80 đơn nguyên với cao độ tới 8 mét mỗi tầng, tầng trệt là nơi bán hàng lưu niệm, dừng chân cà phê cho du khách, tầng trên là những căn hộ 2-3 sao. Cây cầu treo kỳ thú bắc qua thung lũng bên cạnh sẽ được dời qua nơi khác.
“Với mật độ xây dựng như vậy, liệu có phải Bà Nà đang bị bê tông hóa?”. Ông Thắng: “Tất cả đã nằm trong tính toán của chúng tôi. Khu vực Morin đang xây dựng theo quy hoạch sẽ là khu cộng đồng dành cho số đông, với mọi loại hình vui chơi giải trí, ăn nghỉ.
Khu vực dành cho những người ưa thích tĩnh lặng, điều dưỡng tạm gọi là tâm linh sẽ ở Bynight với những vườn thiền, vườn tượng, vườn phong lan... Khu vực thứ ba, đó là sẽ khôi phục 240 biệt thự cổ của người Pháp hiện còn rải rác trong rừng. Đây sẽ là nơi dành cho những người yêu rừng núi ham thích khám phá, có thể thuê ở cùng gia đình thời gian dài...”.
Hoang sơ còn một chút này
Theo ông Vũ Tích Thế - trợ lý GĐ điều hành Bà Nà Hills, 5 tuyến đi bộ khám phá trong rừng (treckking) đang triển khai để chính thức hoạt động. Tuyến 1 từ nhà ga chân núi qua Suối Mơ – thác Tóc Tiên – hồ Thùy Dương. Tuyến 2 từ Bynight đến khu Chim Khướu với khoảng 35 phút đi bộ, với những bậc tam cấp, đá chồng cùng dấu tích nhiều biệt thự cổ của Pháp từ đầu thế kỷ 19.
Tuyến 3 từ Suối Nai lên thác Cầu Vồng khoảng 800 m qua nhiều con suối trong. Tuyến 4 khám phá Thung Lũng Vàng với đoạn đường 3 km từ Cầu Treo xuống đồi Vọng Nguyệt, nơi có dấu tích các hầm đào vàng, giếng nước của phu đào đất đãi vàng ngày trước, xen kẽ với những thác nước và rặng Đào Chuông riêng có ở Bà Nà. Tuyến cuối vòng quanh Núi Chúa, dừng chân trên đỉnh núi cao 1.487 m.
Ông Hoàng Xuân Tỵ, thời sau giải phóng từng là nhân viên kiểm lâm nơi này, thông thuộc từng nhành cây phiến đá, sau khi nghỉ hưu làm thuyết minh viên tình nguyện của Bà Nà Hills với niềm say mê hiếm có.
Ông Tỵ cho biết, từng đưa nhiều đoàn du khách, trong đó có cả những nữ khách Pháp, Nhật Bản luồn rừng Bà Nà nhiều chặng liền. “Có khi chỉ là những gốc thông già hàng trăm tuổi cheo leo trên sườn núi, một thềm rêu đá, hoặc một cái lò sưởi bị lãng quên ngót cả thế kỷ rồi không có ngọn khói trong ngôi biệt thự bỏ hoang của người Pháp giữa rừng cũng tạo cảm giác cho du khách”.
Chào mừng kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Đà Nẵng, một năm khai trương cáp treo và cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng cuối tháng 3 này, Bà Nà Hills giảm 50% giá vé cáp treo dành cho công dân thành phố Đà Nẵng, kể từ ngày 15-3-2010.
Trí Quân
Hà Nội sẽ tắt đèn điện từ 20h30 đến 21h30 ngày 27/3
Cập nhật lúc 08h08" , ngày 20/03/2010
(VnMedia) - Hưởng ứng sự kiện Giờ trái đất năm 2010, Thủ đô Hà Nội sẽ tắt đèn điện chiếu sáng trong thời gian từ 20h30' đến 21h30' ngày 27/3/2010 với thông điệp "Hành động nhỏ cho thay đổi lớn".
(VnMedia) - Hưởng ứng sự kiện Giờ trái đất năm 2010, Thủ đô Hà Nội sẽ tắt đèn điện chiếu sáng trong thời gian từ 20h30' đến 21h30' ngày 27/3/2010 với thông điệp "Hành động nhỏ cho thay đổi lớn".
Theo đó, thành phố sẽ đẩy mạnh công tác truyền thông, kêu gọi các hộ gia đình, người dân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô tham gia Giờ trái đất để góp phần ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
UBND TP Hà Nội yêu cầu Điện lực Thành phố tắt đèn điện chiếu sáng tại một số địa điểm như: xung quanh Đền Ngọc Sơn - Tháp Rùa - Cầu Thê Húc, Nhà hát Lớn Hà Nội, khu vực Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch, các biển quảng cáo trên các tuyến phố lớn, Trụ sở HĐND - UBND TP, Trụ sở Thành ủy.
Tại 29 trụ sở HĐND - UBND quận, huyện, thị xã và một số điểm công cộng do UBND 29 quận, huyện, thị xã lựa chọn cũng sẽ đồng loạt tắt đèn điện hưởng ứng chiến dịch này.
Giờ trái đất là sáng kiến toàn cầu của Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) khởi xướng và được thực hiện lần đầu tiên tại Sydney (Australia) trở thành chương trình toàn cầu trong 2 năm vừa qua, với sự tham gia của hơn 1 tỷ người tại hơn 4.000 thành phố và thị trấn của 88 quốc gia năm 2009.
Chương trình kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức cùng tắt các thiết bị chiếu sáng không cần thiết vào lúc 20h30 đến 21h30 tối thứ bảy cuối cùng của tháng ba hàng năm.
Bà Trần Minh Hiền, Giám đốc WWF Chương trình Việt Nam nhấn mạnh “Là một trong năm nước dự báo bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam cần phải có các hành động và cam kết mạnh mẽ để có tiếng nói mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế trong vấn đề giảm thiểu khí nhà kính để đạt được mục tiêu hạn chế nhiệt độ tăng của trái đất dưới 2 độ C. Chúng ta cần phải đứng lên và hành động chống lại mối đe dọa này”.
Thùy Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét