Sáng nay trời quá mù ra mưa nhỏ từ sáng sớm, trời sương dày đặc, mình thể dục như thường ngày gặp mấy người quen cùng trò chuyện. Bầm dậy từ sớm vệ sinh và ngồi tâm sự với cổ nhân...
Chiều hôm qua sang UBND chơi cầu, có tin nhắn của NH AriBan Sơn Tây mình về lấy 4,9$ qua thẻ ATM, gặp Khanh BV và giám đốc Huệ...Sáng nay Tháp dùng cho việc mua trang sức dùng cho vui mắt, đẹp lòng, tự tin hơn đat 6/10 C 26,4/C.
Mấy hôm ấp ủ viết bài cơ hội, hôm nay với thể loại 5 chữ mình đã bằng lòng với nó...
Tường vào lấy ô mình dự báo nắng, em lại thôi, đứng tâm sự việc lấy được bìa đỏ nhà 25/PNL mà mừng với hai em mình...Chuyện sáng nay mua xôi đỗ Bích quẳng vào bàn nói bầm ăn rồi, chuyện mấy đứa không hỏi nhau...
Lập tiếp phai Địa chỉ của tôi/ Sơn Tây để tiện xem, cũng chuyển một số thông tin cần vào phai A-Cộng hòa để theo dõi...
Chiều nay về bầm cho người đi ngủ, ra BQL tiếp tục hoàn thiện các trang cho 87a-b-c...chia hai phần của hai bạn và mình cũng như BQL, Châu mang giúp tờ HNM sang, mình đã cho xem vụ chợ Phủ Lỗ huyện Sóc Sơn 2003/HN để biết cái giá của văn bản, quy chế do BQL làm ra...Hôm nay họ thu tiền điện để chuẩn bị cho phương án tăng giá... "Nhiệm vụ quan trọng trong nghề báo là cởi bỏ mặt nạ của những kẻ làm sai,lừa đảo và xì căng đan..." GS Stephen Whittle, ĐH Oxford (Anh)
QUÁ MÙ RA MƯA
Trời mưa từ sáng sớm
Những hạt mưa li ty
Báo hiểu buổi trưa nắng
Lạnh theo đó mà đi
Chợ Nghệ nói điều gì...
Bao giờ về chợ mới?
Chắc thương nhân sẽ đợi...
Quyền lợi... vụ án này
Thị xã mình...nói hay
Chợ Trên Thanh tra kết...
Chợ Dưới còn sẽ mệt
Vì quá mù ra mưa...
* Viết hồi 6:54 AM ngày thứ bảy 13/3/2010 tại 11 Phó Đức Chính; tg Vũ Tản Hồng.
Thứ Bẩy, 13/03/2010 - 3:10 AM
Bộ Công an điều tra vụ cháy làm 7 người chết
(Dân trí) - Liên quan đến vụ cháy làm 7 người thiệt mạng, Bộ Công an đã cử cán bộ nhập cuộc để phối hợp với Viện KSND tỉnh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC14), Sở PCCC tỉnh Bình Dương điều tra nguyên nhân dẫn đến vụ hỏa hoạn.
>> Vụ cháy làm 7 người chết: Rộ tin đồn có người phóng hỏa
Ngôi nhà bề thế với một cửa ra vào duy nhất nên khi hỏa hoạn không ai thoát nạn.
Đến chiều ngày 12/3, các lực lượng trên vẫn đang bới từng tấc đất tại hiện trường vụ cháy để tìm các chứng cứ có liên quan đến vụ việc. Công tác điều tra tìm nguyên nhân vụ cháy diễn ra hết sức khẩn trương.
Theo một cán bộ thuộc Sở PCCC tỉnh Bình Dương, ngay khi nhận tin báo, lực lượng chữa cháy đã nhanh chóng triển khai đưa 9 xe cứu hỏa với gần 100 chiến sĩ đến hiện trường.
Khi có mặt tại Doanh nghiệp TM-DV-SX Siêu Vĩnh Lợi thì ngọn lửa đã bao phủ căn nhà, nhiều cột lửa bốc cao gần 5m mà toàn bộ cửa nhà vẫn đóng kín. Lúc này, một nhóm lính cứu hỏa dùng thang trèo lên đập các cửa sổ ở tầng 2 để tìm kiếm những người sống sót, đồng thời triển khai phương án dập lửa.
Quan sát tại hiện trường thì Doanh nghiệp TM-DV-SX Siêu Vĩnh Lợi hoàn toàn khép kín và không có lối thoát hiểm. Phía trước lầu 1 là hai cửa sổ rộng lắp kính và khóa chặt. Dưới tầng trệt, phía trước là một hệ thống rào sắt kiên cố và cửa cuốn hoạt động bằng mô tơ điện. Khu vực nhà xưởng được nối liền với ngôi nhà nên khi ngọn lửa bùng cháy phía trước thì toàn bộ 7 người trong nhà đều bị lửa thiêu chết.
Theo một người thân trong gia đình nạn nhân Kiều (chủ cơ sở này) thì doanh nghiệp Siêu Vĩnh Lợi được thiết kế kiên cố như vậy vì trước đây khu vực này khá vắng, thường xuyên xảy ra mất trộm, do đó gia đình chị Kiều quyết định xây dựng rào sắt vững chắc với một lối ra vào duy nhất.
Thông tin mới nhất mà PV Dân trí thu thập được thì hàng ngày, sau khi hết ca làm việc, các công nhân thường mang mút vụn (không sử dụng được) ra bãi đất trống bên hông nhà để đốt. Ngoài ra còn có tin đồn cho rằng đây là vụ phóng hỏa đốt nhà vì lúc 0h15 ngày 11/3, đã xảy ra xô xát giữa bảo vệ công ty này với một số thanh niên địa phương.
Hiện Cục Cảnh sát điều tra - Bộ Công an (khu vực phía Nam) vẫn đang tiến hành thu thập chứng cứ để làm rõ nguyên nhân gây ra thảm họa nghiêm trọng trên.
Trở lại thông tin về những nạn nhân thiệt mạng trong vụ hỏa hoạn, được biết, tất cả 7 nạn nhân đã được hỏa táng và đưa tro cốt về nhà riêng nạn nhân Kiều, chờ người thân từ Thái Bình vào đưa về quê yên nghỉ.
Cũng trong ngày 12/3, phía UBND huyện Thuận An cũng cử một đoàn đến thăm hỏi, chia buồn và trích ngân sách của huyện hỗ trợ mỗi nạn nhân 3 triệu đồng.
Trung Kiên
In trang
Bài học cảnh tỉnh
13/03/2010 06:36
(HNM) - Hai ngày, hai vụ cháy nghiêm trọng xảy ra ở hai đầu đất nước. Một vụ tại Bình Dương có tới 7 người thiệt mạng. Một vụ xảy ra ở một khu chung cư cao tầng tại Hà Nội cũng có hai người tử vong và điều để lại sau vụ hỏa hoạn này là nỗi lo nơm nớp của hàng vạn người đang sinh sống trong các khu nhà cao tầng.
Sau vụ cháy, thông tin từ cơ quan chức năng cho biết, kết quả đợt kiểm tra mới nhất vào cuối tháng 12-2009 bộc lộ mối lo ngại khi hàng loạt chung cư cao tầng có vấn đề về hệ thống PCCC. Kiểm tra 364 tòa nhà cao tầng (có 10 tầng trở lên) được sử dụng làm chung cư tại Hà Nội, chỉ có 103 nhà cao tầng có hệ thống chữa cháy tự động bằng nước và 20 nhà có hệ thống chữa cháy tự động bằng bột. Tức là có khoảng 2/3 số tòa nhà không thể an tâm.
Thực tế, trước khi vụ cháy tại chung cư JSC vừa xảy ra, đã có nhiều vụ hỏa hoạn tại các khu tập thể cao tầng ở Hà Nội. Điều này cho thấy, công tác PCCC tại các chung cư cao tầng chưa được coi trọng và thần hỏa luôn rình rập. Phòng hỏa hơn cứu hỏa. Việc một số công trình làm ẩu trong PCCC cần phải được chấn chỉnh ngay. Ví như chuyện cái họng rác là nơi quá nhiều nguy cơ xảy cháy thế nhưng ít có khu chung cư nào trang bị hệ thống báo và chữa cháy tự động cho nó, nên lửa cứ âm ỉ mà chẳng ai biết, chỉ đến khi nó bùng phát hỏa thì đã muộn. Nhưng cũng thật đáng phải nói về ý thức của người quản lý và sử dụng chung cư. Phần lớn các công trình khi thi công đều được thẩm duyệt và nghiệm thu về công tác PCCC. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng, hệ thống chữa cháy bị hư hỏng, xuống cấp nhưng ban quản lý tòa nhà không quan tâm duy tu sửa chữa. Thậm chí ở nhiều nơi, nhân viên quản lý, bảo vệ còn không biết sử dụng và vận hành hệ thống PCCC. Người dân ở các khu chung cư thường không được phổ biến các biện pháp cơ bản đề phòng "bà hỏa" cũng như các kiến thức sơ đẳng nhất xử lý, thoát nạn khi có hỏa hoạn. Ý thức kém nên ở nhiều nơi người dân lấn chiếm hành lang thoát hiểm cho các mục đích riêng, rồi chuyện đốt vàng mã ra hành lang, đổ cả tro, than đang cháy vào hệ thống chứa rác chung... Bài học từ vụ cháy ở nhà CT4-1 khu đô thị Mễ Trì Hạ, rồi tại chung cư 25 Vũ Ngọc Phan hồi năm ngoái do người dân bỏ tàn tro vào ống rác còn chưa cũ thì nay chúng ta lại phải chứng kiến một sự cố đau lòng tương tự. Đã đến lúc cần có chế tài mạnh buộc chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình nhà chung cư bảo đảm tiêu chuẩn PCCC, tổ chức diễn tập về phòng chống cháy, nổ; phổ biến kiến thức PCCC cho nhân dân và thực hiện những nhiệm vụ có liên quan.
Ngay sau khi xảy ra vụ hỏa hoạn tại chung cư JSC, UBND TP Hà Nội đã có văn bản yêu cầu các sở, ngành liên quan và UBND các quận, huyện kiểm tra, chấn chỉnh công tác quản lý nhà chung cư cao tầng. Một động thái có thể cho là không sớm, nhưng chắc chắn cũng chưa muộn khi mà ở Thủ đô đang từng ngày vẫn mọc lên các khu nhà cao tầng. Nếu chúng ta vẫn chủ quan thì rất có thể sẽ còn phải chịu những hậu quả khôn lường. Vụ cháy tại chung cư JSC là bài học, trả giá bằng chính mạng sống của con người, là hồi chuông cảnh tỉnh về công tác PCCC đang bị buông lỏng trên nhiều phương diện.
Quỳnh Nhi
Đang tải dữ liệu...
Sự tồn tại của vong linh thánh thần với lên đồng- hầu đồng
Chuyên viên cao cấp Hồ Thu 13/03/2010 10:09:43 AM
Sau nhiều năm khảo sát và nghiên cứu hàng ngàn trường hợp áp vong, gọi hồn người đã khuất để tìm mộ liệt sĩ và mộ thất lạc qua những người có khả năng đặc biệt như cô Phương (Thanh Hóa), cô Thạo (Hải Phòng), cô Bằng ( Hải Dương)… đã được Hội đồng khoa học Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đánh giá có kết quả tốt. Để tiếp tục quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về sự tồn tại của vong linh con người trong cuộc sống có một sự kiện đáng lưu ý là có hay không vong linh của các bậc thần thánh trong đời sống văn hóa tâm linh. Để tìm hiểu và đánh giá vấn đề này, Bộ môn Cận Tâm Lý- Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học- kỹ thuật Việt Nam tiếp tục đưa vào nghiên cứu Đạo Mẫu tứ phủ ở Việt Nam qua việc lên đồng và hầu đồng.
1. Đạo thờ Mẫu:
Trong tiến trình lịch sử dân tộc trải qua các thời kỳ Nho, Phật, Lão, cư dân nông nghiệp Việt Nam phát hiện ra rằng để sinh ra, lớn lên, tồn tại và phát triển không thể thiếu vị trí tối linh thiêng và chỉ có một không hai là Bà Mẹ - danh từ Hán Việt gọi là Mẫu. Từ đó có tên gọi Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu nghi thiên hạ, Mẫu Thượng ngàn (rừng xanh), Mẫu Thủy (sông dài biển rộng) đó là những hình tượng sinh động về Người Mẹ trong cuộc sống. Còn về cụ thể bằng xương thịt và có đời sống dân gian gần gũi với dân cư sông Hồng là hình ảnh Thánh Mẫu Liễu Hạnh – một trong tứ thánh bất tử của nền nếp đạo đức truyền thống của nền văn minh sông Hồng ( Tản Viên, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Bà Chúa Liễu) được tôn kính lập đền thờ khắp nơi, từ Bắc vào Nam, hình thành nên một nền nếp đạo đức truyền thống của văn minh sông Hồng trong quá trình tiếp nhận có chọn lọc nền văn minh Ấn Độ - Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đánh đuổi các loại kẻ thù xâm lược để tồn tại và phát triển với câu ngạn ngữ bất hủ “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, với đạo lý bất di bất dịch trong truyện cổ dân gian Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu: “ Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ”.
1. Mẫu Liễu Hạnh và đạo mẫu Việt Nam:
Trong tâm thức dân gian Việt luôn khẳng định sự trường tồn bất tử của dân tộc, giống nòi. Từ huyền thoại cha Rồng mẹ Tiên đến Tứ thánh bất tử: Đánh giặc là Thánh Gióng; chống lại thiên nhiên là Thánh Tản Viên Sơn; tự do yêu đương tạo lập gia đình hạnh phúc và sinh cơ lập nghiệp, làm thuốc chữa bệnh đảm bảo cuộc sống là Thánh Chử Đồng Tử, bên cạnh ba biểu tượng ấy cần thêm một vị nữa để cho “Cõi Nam thiên bất hòa tư”. Vị thánh ấy chính là Liễu Hạnh mà huyền thoại là người phụ nữ tiêu biểu có gốc là con gái nhà trời ba lần xuống trần. Lần thứ nhất đầu thai vào nhà họ Phạm đến 20 tuổi về trời. Lần thứ hai đầu thai làm con gái nhà Lê lấy chồng là con trai nhà Trần sinh được hai con. Đến năm 21 tuổi nhớ cha là Ngọc hoàng đã dặn chồng con ở lại còn mình thoát xác về trời. Lần thứ ba nhớ chồng con lại xin Ngọc hoàng cho xuống ngao du sơn thủy, giúp vua đánh giặc, dạy dân an cư lạc nghiệp. Lúc ở chùa Tiên (Lạng Sơn), lúc về Tây Hồ (Hà Nội) đàm đạo văn thơ với Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan hoặc cùng hai thị nữ mở quán độ đường cho dân ở Sòng Sơn, Phố Cát (Thanh Hóa).
Hình tượng Liễu Hạnh công chúa hiển thị một người phụ nữ trung, hiếu, tiết, nghĩa; một bà mẹ Việt Nam hoàn hảo sống mãi trong tâm thức dân gian, trở nên bất tử.
Trong bốn vị thần linh bất tử, chỉ duy nhất Liễu Hạnh công chúa là nữ thần nên được dân gian tôn vinh là Mẫu để thờ phụng theo tín ngưỡng thờ mẫu thần và mẫu tứ phủ. Cùng với nhân thần như Vương Mẫu (mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (mẹ Âu cơ), Cung Từ Thánh Gióng (mẹ vua Lê Thái Tổ) còn các nhiên thần như Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thủy, Mẫu Thượng Ngàn (Tứ phủ), Mẫu Liễu Hạnh do có thân phận và đời sống gần gũi với nhân gian nên được thờ phụng ở nhiều nơi (đặc biệt có một lễ hội nổi tiếng là lễ hội Phủ Giầy ở Vụ Bản – Nam Định) như ở: Tây Hồ (Hà Nội), chùa Tiên (Lạng Sơn), điện Hòn Chén bên bờ sông Hương (Huế), đền Bắc Lệ (Hữu Lũng- Lạng Sơn)…
Mẫu thuẫn là các nữ thần đã được phong tước như Vương Mẫu (mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (mẹ Âu Cơ), cung Từ Thánh Mẫu (mẹ vua Lê Thái Tổ). Mẫu tứ phủ là mẫu của bốn vùng, miền hình thành vũ trụ: Thiên phủ (miền trời), Địa phủ (miền đất), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thủy hay Thoải phủ (miền sông biển). Đứng đầu mỗi phủ là một vị thánh mẫu và đặt tên các bà là: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải phù hợp với cuộc di dân của người Việt từ rừng núi theo các dòng sông về sống hai bên bờ lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Lam… để canh tác lúa nước hình thành nền Văn minh lúa nước phát triển đến ngày nay.
2. Đức Thánh Trần và lễ hội Kiếp Bạc:
Trong tâm thức dân gian Việt còn một hình tượng người cha anh hùng dân tộc Thánh Trần Hưng Đạo mà không một đình, đền, chùa nào không có một ban thờ ngài. Dân gian gọi ngài bằng Đức Thánh bởi truyền thuyết kể rằng ngài là con trời, được Ngọc Hoàng phái xuống trần gian đầu thai vào dòng dõi hoàng tộc nhà Trần để bình định giặc Nguyên- Mông đang có âm mưu tung vó ngựa viễn chinh hủy diệt loài người. Và chính ngài bằng văn trị, võ công siêu việt đã hai lần đại phá quân xâm lược Nguyên – Mông, được các nhà nghiên cứu khoa học lịch sử thế giới theo đề xuất của Hội khoa học Hoàng gia Anh quốc lựa chọn là một trong 10 danh tướng thế giới của mọi thời đại trong đó có một danh tướng còn sống ở thế kỷ XXI là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng trong dân gian đã định rằng: tháng tám giỗ cha- tháng ba giỗ mẹ để mở lễ hội tại nơi thờ chính Phủ Giầy (Nam Định) và Vạn Kiếp (Hải Dương). Người ta nô nức tề tựu dâng lễ cha, mẹ cầu tài, cầu lộc, cầu phúc, cầu an và chứng nghiệm rằng rất linh thiêng.
Với ý nghĩa độc đáo và thiết thực ấy nên tín ngưỡng thờ Mẫu được coi là Đạo Mẫu ở Việt Nam. Từ trong hình thành và phát triển, Đạo Mẫu đã luôn đồng hành cùng dân tộc với ý nghĩa linh thiêng và cao cả nhất mà danh hiệu “ Các bà mẹ Việt Nam anh hùng” hiện đang được cả nước tôn vinh là minh chứng hùng hồn.
Cùng với việc tôn thờ cha mẹ như trên, Đạo Mẫu đã gắn không quên từ các con của ngài là các vị tướng đáng giặc, từ đời Bà Trưng là hai nữ tướng Lê Chân, Bát Nàn, ông Hoàng Bơ (nhà Trần), ông Hoàng Bảy (nhà Lý), ông Hoàng Mười (nhà Lê), quan lớn tuần tranh (quan thanh tra của các triều đình) đến những danh dân, danh thần miền xuôi, miền ngược, nam- phụ-lão-ấu nếu có công danh đánh giặc cứu nước giúp dân đều được lập đền, lập miếu sắc phong và thờ tự. Do đó hình thành câu ca dao dân gian nổi tiếng cổ kim:
Giúp dân dân lập miếu thờ
Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương
Tưởng cũng là bài học đắt giá cho muôn mặt cuộc đời!
Đó là kể về các vị thần bằng xương bằng thịt hiển hiện trong bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Dân tộc ta trong cuộc mưu sinh phải chống chọi với thú dữ, cuồng phong và hải tặc từ rừng đến biển nên cũng không quên ơn các vị thần núi, thần sông, thần cửa biển, ở nơi sinh sống của mình và chính các vị nhiên thần kể trên đã giúp nhân dân ta đứng vững trước mọi cơn phong ba bão táp, mọi loại côn trùng phá hoại mùa màng.
Văn chương chữ nghĩa xưa nay có câu chữ nào hay hơn , linh thiêng hơn, hùng tráng hơn thành ngữ “Khí thiêng sông núi, hồn thiêng đất nước” để tỏ lòng tri ân với đối với các vị thần linh. Năm tháng qua đi nhưng dòng chảy nhân điện của các ngài vẫn luôn hiển hiện giúp chúng sinh vượt lên trên giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt để mãi mãi trường tồn. Sự linh thiêng ấy là có thật và còn mãi mãi hiển hiện trên mọi bước đường dựng nước và giữ nước của chúng ta. Chớ có ai mê lầm mà quên quay lưng lại với hồn thiêng giống nòi, khí thiêng sông núi.
II. Tục lên đồng, hầu đồng ở Việt Nam
Trong dân gian đã thể hiện lòng tri ân đối với tiền nhân qua các tục lệ Giáng bút hoặc Lên đồng. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một sinh hoạt văn hóa sinh động và thiết thực đó là tục Lên đồng- Hầu đồng. Tuy nhiên, ở đây chỉ trình bày những nét đẹp về một tục lệ diễn xướng dân gian thông qua người diễn xướng (đồng cô, đồng cậu) nói về thân thế và sự nghiệp vì dân, vì nước của từng người một giúp mọi người tham gia lễ hội nhớ mãi người xưa, chuyện cũ trong không gian linh thiêng tại các phủ, đền thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần. Do đó, qua năm tháng tục Lên đồng đã gắn với Đạo Mẫu như hình với bóng trở thành một bản sắc văn hóa tâm linh dân tộc rất đặc biệt thu hút sự say mê nghiên cứu của các văn hóa khắp nơi trong nước và trên thế giới. Giải nghĩa chứ đồn (từ Hán- Việt) và từ Nôm là cùng – nhập thế giới. Thần tiên, Thánh mẫu cầu tài, cầu lộc, cầu gia sự bình yên, khỏe mạnh, cầu cho quốc thái dân an… Và cứ mỗi lần Thánh nhập đến thăng (ra đi) được coi là kết thúc một giá đồng. Mỗi giá đồng được diễn xướng trong khoảng từ nửa giờ tới hàng giờ liền do Thánh thần; hoặc phải dày công thiền định mới có thể tiếp dẫn được nguồn năng lượng siêu nhiên ấy để nói ra được những lời Thánh phán. Đồng còn có một nghĩa khác là tiểu đồng, hoặc tiên đồng hầu hạ bên cạnh các vị đại Tiên, Thánh, nhận sự ủy thác nhờ cậy của chúng sinh những nguyện cầu về quốc thái dân an, về những khó khăn trong đời sống trần gian, mong được Thánh thần giải thoát. Vì vậy còn được gọi là hầu đồng, lên đồng.
Không gian của lễ diễn xướng dân gian thường được diễn ra trước các cửa đền, cửa phủ nơi thờ Thánh, thờ Mẫu, trước sự hiện diện của các ngài, tại các đền phủ dựng tượng Thánh, tượng Mẫu sắp đặt theo nghi thức tam tòa Thánh Mẫu, ngũ vị Tiên Ông ở giữa. Đức Thánh Trần và nhị vị cô nương ở bên phải. Đức chúa Thượng ngàn ở bên trái. Dưới đất thờ quan Ngũ Hổ. Thứ tự và màu sắc trang phục đều tuân thủ quy luật âm- dương, ngũ hành và tư tưởng triết học phương Đông (xem phụ lục). Phải chăng sự sắp đặt hợp với quy luật tự nhiên như trên cộng đồng với các cây cao bóng cả trùm lên các ngôi đền đã hội tụ đủ các dòng sinh khí tốt làm cho chúng sinh hội tụ về được giải tỏa mọi bức xúc của đời thường để hướng tới cõi Chân- Thiện- Mỹ làm nên hạnh phúc cuộc đời?
Tham gia lễ diễn xướng dân gian nhân vật chủ yếu là cô đồng (nữ) hoặc cậu đồng (nam). Đó là những người có căn hòa nhập cõi thiêng tứ phủ của Đạo Mẫu với các Mẫu hoặc với các ông Hoàng, bà Chúa, các cô bé, cậu bé để trình diễn trước chúng sinh hình ảnh các vị danh thần mà lịch sử ghi danh, dân gian ngưỡng mộ qua các trang phục quần, áo, nón, mũ, gươm đao, mái chèo, giày dép… Qua việc nhập hồn vào cõi thần thánh, tiếp dẫn những lời vàng ngọc cho chúng sinh thỏa mãn lòng mong mong ước được thăng hoa cùng thế giới thần tiên, được tiếp nhận những lời vàng ngọc của các ngài hầu vận dụng vào đời sống thường nhật hoặc được các ngài ban phước ban lộc để an ủi tâm linh lấy làm may mắn trong cuộc mưu sinh đến với Chân- Thiện- Mỹ. Cách hành lễ đặc biệt (lên đồng- hầu đồng) ấy vừa vui vừa lạ mắt lại rất dân gian như buổi các con (cô đồng, con nhang đệ tử) về với cha, mẹ. Lễ vật dâng lên không cầu kì, chỉ biểu trưng cho tấm lòng hiếu thảo đối với bề trên. Trong mỗi giá hầu Thánh, hầu Mẫu, các ngài lại ban phát lộc, ban phúc cho con cháu mọi sự như ý, cầu được ước thấy. Niềm vui ấy lan tỏa cho mọi chúng sinh đến trước cửa Mẫu phản ánh sinh động lẽ sống và tình cảm cao đẹp của con người.
Trong những giá như thế, trước không gian linh thiêng và thành kính, người hầu đồng được thăng hoa siêu thoát cõi tiên, thánh, nhập vào cõi Thiện để phát và thu năng lượng vừa giải tỏa được những ức chế thường nhật và tiếp thu được sức mạnh của các đấng siêu nhiên không dễ gì có được.
Điện thờ Mẫu trong tôn giáo thờ Mẫu từ trước khi ra đời (vào khoảng thế kỷ XVI mà mẫu Liễu Hạnh là tiêu biểu, là một bước phát triển so với thờ Phật nhát là thời kỳ Lý –Trần) biểu hiện mẫu Liễu Hạnh là một người mang dòng máu họ Lý lấy chồng họ Trần nên được dân gia tiếp nhận đưa vào thờ trong các chùa đã có từ trước theo ước lệ tiền Phật hậu Mẫu. Ngày nay khi vãn cảnh bất kỳ ngôi chùa nào ta cũng thấy có điện thờ Mẫu, thờ Thánh gọi là những ngôi đền (khác với đình thờ Thành hoàng và chùa thờ Phật). Đây cũng là những nét độc đáo của nền văn hóa tâm linh mang bản sắc Việt Nam, tiêu biểu là hai ngôi đền: Đền Kiếp Bạc (thờ cha) và Đền Phủ Giầy (thờ mẹ) thỏa mãn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của nhân dân ta nói chung và của những người theo tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung. Ngoài ra, những người theo tín ngưỡng thờ Mẫu (theo Đạo Mẫu) còn có thể đến cầu nguyện thỏa mãn tâm linh tại nhiều đền thờ Mẫu ở khắp các địa phương là các ngôi chùa và các ngôi đền trong đó có những ngôi đền nổi tiếng được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa như: Đền Mẫu – Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Mẫu- Chùa Tiên (Lạng Sơn), Đền Mẫu- Phủ Công đồng Bắc Lệ (Lạng Sơn), Đền Cửa Ông (Quảng Ninh), Đền Thượng (Hà Tây), Đền Chính (Đa Hòa) và Dạ Trạch (Hưng Yên), Đền Sóc (Hà Nội), Đền Và (Sơn Tây), Đền Phủ Đổng (Hà Nội), Đền Mẫu Âu Cơ (Phú Thọ), Đền Mẫu (Hưng Yên), Đền Mẫu Động Cuông (Lào Cai)…
Cùng với một hệ thống hàng trăm ngôi đền thờ Thiên thần, Thổ thần, Thủy thần, Sơn thần, Long thần… và hàng trăm ngôi đền trong hệ thống tín ngưỡng tứ phủ từng tôn tại từ thế kỷ XV đến nay được các triều đình phong kiến sắc phong và Nhà nước Việt Nam ngày nay gắn biển di tích lịch sử văn hóa minh chứng cho đạo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” cao đẹp trong dòng chảy lịch sử truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Tại các lễ hội dân gian diễn ra trong những ngày húy kỵ các vị thần linh ở các cửa đền, cửa chùa, ngoài các trò chơi dân gian thường có tục diễn xướng dân gian kể về công tích của các vị thần thánh khắc sâu đạo lý uống nước nhớ nguồn và cầu mong quốc thái dân an của đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ. Trong tâm linh các đệ tử theo đạo Mẫu thì đây là dịp để các vị thần linh giáng về hiển hiện trước lễ hội chứng kiến tâm thành của con cháu để ban phúc, ban lộc, đáp ứng sở nguyện của chúng sinh về quốc thái dân an, gia đình và cá nhân thành đạt, hạnh phúc.
Tùy theo hoàn cảnh từng nơi, từng vùng, lễ diễn xướng như trên có thể diễn ra hàng giờ hoặc nhiều giờ, có khi kéo dài đến nửa đêm đều do chủ lễ hoặc chủ nhang và các thanh đồng thể hiện và quyết định.
Ngoài ra còn có các lễ định kỳ hoặc thường kỳ khác theo ước định của tín ngưỡng thờ Mẫu như sau:
• Lễ xông đền.
• Lễ hầu thượng nguyên vào đầu năm mới- mùa xuân. Trong đó quan trọng nhất là tháng Ba- giỗ Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay còn gọi là giỗ Mẹ.
• Lễ hầu nhập hạ vào tháng Tư và lễ hầu tán hạ vào tháng Bẩy.
• Lễ tháng Tám là giỗ vua cha Bát Hải và giỗ Đức Thánh Trần hay còn gọi là giỗ Cha.
Thực hành nghi lễ hầu đồng của đạo tứ phủ
Trong các kỳ lễ như vậy thủ nhang quản lý các đền chùa đều tổ chức hầu đồng (lên đồng) cho các thanh đồng và các đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ (đạo Mẫu) thực hiện nghi lễ nhập hồn (vong linh) các vị thánh tứ phủ vào mình để phán truyền (dạy bảo) đệ tử tu nhân tích đức hành thiện với đời hoặc ban phúc, lộc thọ cho họ lấy làm an ủi trong cõi tâm linh trước mọi bất kỳ đến nay (XV- XXI) vẫn còn ứng nghiệm đối với những người thành tâm hoặc tâm trong (sạch, sáng, không nhiễm bụi trần). Nhiều thanh đồng càng trải qua quá trình tu tập thiền định (ăn chay niệm phật) lâu năm càng dễ thực hành nghi lễ nhập hồn các vị thánh tứ phủ và càng được đông đảo các đệ tử tín nhiệm tin theo. Không chỉ các đệ tử mà ở nhiều đền, phủ, chùa chiền đều có tổ chức lên đồng (hầu bóng) còn thu hút rất đông khách thập phương theo về để vãn cảnh, để thỏa mãn nghệ thuật diễn xướng dân gian qua các diễn xuất múa và các lời ca minh họa chân dung và công lao cứu dân cứu nước, cứu khốn phò nguy của các vị thánh từng hiện hữu trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đánh đuổi các loại kẻ thù xâm lược.
Trong số khách thập phương đến với các cửa phủ của tín ngưỡng thờ Mẫu (đạo Mẫu) có đủ các thành phần từ cụ đồ nho, phật tử, trang tử đến các đạo giáo khác và các nhà khoa học, trí thức ở nhiều châu lục… nên có thể coi là một bức tranh đẹp biểu hiện tình đoàn kết các tôn giáo, dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt tự cổ chí kim. Bởi vì đứng trước Mẫu tứ phủ ( tiêu biểu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh) người ta như được đứng trước sự sinh sôi nảy nở - nguyên lý bất diệt của sự sống – mà mình hằng hướng tới, đứng trước sự bao dung, nhân ái, che chở của bà mẹ nhân từ không ai có thể nhân danh gì, phân biệt gì khi đứng trước mẹ hiền.
Quá trình thực thi nghi lễ nhập hồn các vị Thánh Mẫu, các Đức Ông, các Quan, các Chầu vào các thanh đồng để đáp ứng nguyện vọng cầu quốc thái dân an, cầu phúc lộc thọ, giải oan giải nghiệt của các đệ tử theo tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ lần lượt diễn xướng gọi là ba mươi sáu giá đồng. Trong cuộc mưu sinh của con người con số 36 có lẽ phản ánh sự cực thịnh của âm- dương, ngũ hành. Song tùy nơi, túy lúc các giá tiêu biểu nhất đáp ứng chung những nguyện vọng cần thiết nhất của đệ tử khi dâng sớ hoặc cầu khấn Thánh Mẫu, nhất là với các quan hành khiển, các ông Hoàng, các cô bơ, cô bé, cậu bé hầu cận tiếp nhận theo thứ tự giống như từ cung đình đến gia tộc thường thấy. Ví dụ một số giá hầu đồng tiêu biểu linh nghiệm trong thập vị tôn ông, thập vị chầu bà:
1. Giá chúa thác bờ:
… Khắp mọi miền kêu cầu vọng bái
Ai lỗi lầm chúa đoái lòng thương
Dù ai duyên số dở dang
Lòng thành thắp một nén nhang kêu cầu
Nếu đã nguyện sở cầu tất ứng
Độ cho người phúc đẳng hà sa
Dù ai vận hạn chưa qua
Chúa độ cho tai qua nạn khỏi
Cứu cho người khỏi cõi trầm luân
Nước tiên tẩy hất bụi trần
Thanh cao rồi lại mười phần thanh cao…
2. Giá Mẫu thượng ngàn:
… Anh linh đã có tiếng đồn (thượng đẳng tối linh thần)
Sấm ran mặt bể mưa trên đầu nguồn…
Vốn dòng công chúa thiên thai
Giáng sinh hạ giới chuyện cai thượng ngàn
… Yêu ai tài lộc Mẫu ban
Ghét ai cách nửa bàn chân cũng lìa
Mẫu về giáng phúc từ trung
Cung từ đệ tử khang minh thọ trường
3. Giá ông Hoàng bơ thoải:
Ghế ông bao lễ lòng thành
Kim ngân sớ bạc để trình đến đây
Nhất tâm cầu phật khấn thần
Nhần lòng giữ đức muôn phần tốt tươi
Ai biết phép gia tài ban lộc
Độ cho người văn học thông minh
Những ai hữu ý nhiệt thành
Độ cho lạc nghiệp, nông canh thuận đường.
4. Giá ông Hoàng Bảy Bảo Hà:
Sử còn chép Bảo Hà thắng tích
Ông Hoàng Bảy đích thực trung quân
Tiếng thơm để khắp trần gian
Cương thường dựng nước ra công diệt thù
Đã đứng lên cầm cân nảy mực
Mất chữ Tân thì tội phải mang
Lưới trời bủa khắp bốn phương
Hạt nhân, nhân hại không đường thoát thân
Đừng ai khỏe trọn vẹn trăm phần
Chữ Đức chưa tốt ông Bảy cân sao cho bằng
Ông khuyên đừng khinh kẻ bần hàn
Đức mà đã tốt ông ban vẻ vang cho đời đời
Quan Hoàng Bảy trấn miền Bắc địa
Hợp binh hùng lục thủy thao giang
Quân cơ mưu lược luận bàn
Doanh thu thường có hai hoàng vào ra.
5. Giá ông Hoàng Mười Nghệ An:
Vung gươm yên ngựa phất cờ
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam
Ông Hoàng Mười ra tay giữ nước
Ông đi tới đâu giặc phải tan ngay
Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước thì đền ông đây mới hết lộc tài.
6. Giá quan đệ ngũ- Quan lớn tuần tranh:
Tung hoành đệ ngũ tuần tranh
Trừ tà sát quỷ lừng danh tướng tài
Thiện sinh văn võ gồm hai
Quan tuần đệ ngũ đấng trai anh hùng
Đêm ngày giữ đạo thủy cung
Đợi lệnh cửu trùng cứu độ sinh nhân
Ai mà cầu nhân đắc nhân
Ai mà cầu đắc phúc bản thân điều hòa
Ông kiêm tam giới các tòa
Phù hộ đệ tử thiên niên hài hòa
Một là giáng phúc trừ tà
Hài là bản hội các nhà thịnh hưng
Giúp cho buôn bán trăm đường
Tiền tài lưu loát bạc vàng đắc sinh
Giúp cho phú quốc dân an
Can qua thoát nạn thanh bình nơi nơi.
7. Giá cô bé Thượng- công đồng Bắc Lệ
Có ai lên Lạng Sơn châu thổ
Hỏi thăm đền Chầu bé nơi nào
Hỏi thăm Bắc Lệ mà vào
Đền thờ Chầu Bé thấp cao mấy tầng
… Tiên Chầu Bé vâng lời Mẫu Thượng
Hái thuốc tiên độ lượng nơi nơi
Độ cho tuế cựa Xuân lai
Cửa nhà khang thái phúc lai hạn trừ
Tâu lên Bắc Lệ linh từ.
8. Giá Chầu Lục- Chầu Mười Đồng Mỏ:
Ai lên Đồng Mỏ- Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn người sinh quán Mỏ Ba
Cầm dao nối dõi nghiệp nhà dao cung
Vua Lê Thái Tổ trùng hưng
Theo vua dẹp giặc Liễu Thăng đi đầu
Vua sai trấn giữ các châu
Sơn trang các tướng nghe chầu giao binh
Mười đông chiến trận tung hoành
Đánh tan giặc dữ triều đình phong công
Chầu về trở lại sơn trang
Giúp dân lập ấp trong vùng Mỏ Ba
Đức tài dậy khắp gần xa
Bản mường thôn ấp trẻ già đội ơn.
9. Giá quan Đệ Tam- Lảnh Giang Yên Lệnh Hưng Yên:
Thỉnh mời quan lớn đệ tam
Phương phi diện mạo tòa Lảnh Giang linh từ
Ngài là con vua Bát Hải Động Đình
Phong tôn hiệu đệ Tam Hoàng Thái tử
Văn thần cải tú, võ tổng lược thao
Danh quan lớn vang lừng trong tứ hải
Một tay hoàng tử vương quan
Cứu sinh cũng lắm, giải oan cũng nhiều
Đó là các giá hầu do các thanh đồng thực hiện tại các đền phủ thỏa mãn việc dâng sớ kêu cầu và tiếp cận chân linh các đệ tử thờ mẫu tứ phủ. Cũng có một số đệ tử tự mình tham thiện nhập định tiếp cận chân linh các mẫu, các quan, các cô, các cậu để được tự mình nhập hồn vào các bậc tiền nhân để thỏa mãn tâm linh tôn thờ các thần thánh cũng được các thủ nhan, thanh đồng giúp sức thực hiện tại bản đền, bản phủ và được tín các tín đồ Đạo Mẫu (còn gọi là con nhang, đệ tử) tham gia.
Để tái hiện hình ảnh các vị thần, thánh có tên trong Đạo Mẫu tứ phủ các thánh đồng trong mỗi giá đều phải sử dụng một loại trang phục tương ứng từ trang phục đến võ phục, từ khăn mũ đến giầy dép và các đồ trang sức cùng với các màu sắc tương ứng với các vị thần cai quản tứ phủ như Thiên – đỏ, Địa – vàng, Thượng ngàn- xanh lá, Thủy- trắng. Qua đó các con nhang đệ tử và những người hâm mộ được tiếp cận các vị thần, thánh một cách trực diện, biểu hiện và những lời Thánh phán càng có sức thuyết phục cao, thỏa mãn tâm linh con người. Giá trị thẩm mỹ của trang phục dân tộc cổ truyền độc đáo được phát huy một cách tối đa.
Ngoài trang phục các thanh đồng hoặc người hầu đồng sử dụng kể trên, khi nhập hồn các vị thánh thần con phải thể hiện như thật các động tác tay chân và biểu hiện nét mặt từng vị. Nếu thánh nhập đồng là các quan lớn, các ông hoàng (10 giá chầu) thì động tác phải thể hiện oai nghiêm, hùng dũng cùng với các động tác múa, đao, gậy, kiếm như đang chiến đấu diệt giặc ngoại xâm. Các con nhang đệ tử vừa nghe lời ca diễn tả hình ảnh các ngài như được thấy các ngài đang hiện diện càng tưởng nhớ sâu sắc các bậc tiền nhân đã chiến đấu anh dũng hi sinh vì dân, vì nước, càng thấm đượm ý nghĩa lớn lao “uống nước nhớ nguồn” càng hy vọng vào sự linh thiêng của các ngài từ cõi xa xăm trở về độ cho con cháu tai qua nạn khỏi trước những khó khăn của cuộc sống hàng ngày. Song nếu thánh nhập hồn vào các thanh đồng hoặc người hầu đồng lại là các chầu bà (12 giá chầu) hoặc chầu cô bé (10 giá) thì phải biểu hiện bằng sự dịu dàng, duyên dáng qua nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, cử hcir nữ tính cùng các điệu múa quạt, dệt gấm, thuê hoa, múa nón, múa chèo đò, hái chè, bắt bướm… cùng với các làn điệu hát văn bay bổng nhặt khoan diễn tả miền sông nước, miền đông hay miền sơn cước nơi các đền, miếu thờ các vị thánh thần từng hiển linh cứu dân, cứu nước đã được dân chúng ngưỡng mộ, triều đình phong kiến sắc phong và Nhà nước ta công nhận di tích lịch sử văn hóa.
Không gian trầm mặc nơi các cửa đền cửa phủ phảng phất mùi hương khói thơm lan tỏa cùng với sự nhập hồn các vị thần thánh vào các thanh đồng được diễn xướng trên khiến các con nhang đệ tử Đạo mẫu tứ phủ và công chúng tham dự như được hòa vào quá khứ, tiếp nhận sự phán truyền về đạo lý làm người, về tương lai cuộc sống của các vị thần linh cho chính bản thân mình. Đó cũng là những giây phút thăng hoa trong tâm hồn trước nỗi bức xúc của đời sống thường nhật – một liệu pháp tâm lý độc đáo. Trong dân gian đã có những ghi nhận rằng:
Ở các đền, phủ nào có các thủ nhang và thanh đồng thành tâm thờ phật, thờ mẫu, ăn chay, niệm phật, tu thiền đat tới mức nhập lai trí huệ, vô thường, vô ngã, vô minh (tâm trong suốt) thì có thể đến với các vị thần thánh. Đền phủ nào là nơi giúp sức cho sự giải thoát những khổ đau của chúng sinh, hướng chúng sinh đến được Chân- Thiện- Mỹ thì sẽ được các ngài giáng về bảo ban, che chở cho cuộc sống bình an. Ở những nơi người ta từ trong tâm linh của mình tiếp nhận được những nguồn năng lượng siêu nhiên trong vũ trụ để nhận ra rằng đã tiếp cận được các ngài, đã được các ngài ban phúc lộc thọ, song đó cũng chỉ là linh hồn thiêng hiện về. Trong cộng đồng dân tộc gọi đó là những đền thiêng, những thanh đồng và thủ nhang cao tay được đông đảo con nhang đệ tử tín ngưỡng Đạo mẫu tứ phủ tìm đến hoặc theo về; có người còn đội bát nhang theo hầu các mẫu, các quan lớn, các ông hoàng.
Hầu đồng – Lên đồng là một hình thức biểu hiện đặc biệt của tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ chứa đựng trong lòng nó sức mạnh vô hình, thiêng liêng qua cách nhập hồn các vị thánh thần có thật trong lịch sử, đáp ứng được đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng dân tộc.
Cách tiếp cận vong linh của các vị thần thánh bằng cách giá đồng do các thanh đồng, người hầu đồng hát múa với các trang phục và màu sắc dân tộc độc đáo đã là cách lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc một cách sinh động và đầy ấn tượng sâu đậm trong lòng người hâm mộ.
Đạo mẫu và tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ với hình thức biểu hiện đặc biệt kể trên ra đời từ thế kỷ XV- XVI tiếp theo các đạo Nho, Phật, Lão trước đó và tồn tại đến ngày nay chứng tỏ rằng các vị thần thánh được diễn tả trong các giá đồng từng là vị tướng đánh giặc cứu nước, từng là các vị thần tuy đã qua đời nhưng vẫn còn hiển linh cứu nhân độ thế đã và đang tồn tại trong thế giới tâm linh của nhân dân ta. Từ nhiều thế kỷ nay trong đời sống tâm linh của nhân dân ta đã dùng hình thức hầu đồng vừa là sinh hoạt diễn xướng văn nghệ dân gian vừa là để nhập hồn các vị thần linh hiển linh cứu nhân độ thế.
Chưa ở đâu trên thế giới này có một hình thức tiếp cận vong linh những người đã khuất đặc biệt độc đáo đến như vậy. Gạt ra một bên mặt trái của sự việc, một sự vật hay cả một con người, chúng ta sẽ có một cái nhìn chân thực về giá trị văn hóa tâm linh đặc biệt độc đáo xuất sắc – nghi lễ thực hành của đạo Mẫu tứ phủ - nghi lễ hầu đồng – lên đồng – văn hóa tâm linh.
Tài liệu tham khảo để viết bài:
1. Thần linh đất Việt – Vũ Thanh Sơn – NXB Văn hóa Dân tộc, H.2002.
2. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam – Học viện CTQG Hồ CHí Minh, H.2000.
3. Tuyển các bài hát văn chọn lọc – Vua cha Bát Hải – Tài liệu sưu tầm.
4. Văn Cát Thần nữ- nhiều tác giả - NXB Văn Hóa Dân Tộc. H.1990.
5. Xuân Thiên khánh tiệc Địa tiên thánh mẫu – Nguyễn Khiết Linh từ- 102 Hàng Bạc- Hà Nội –VCD 1,2,3
6. Vân tiên thánh mẫu tam thế giáng sinh – NXB Văn hóa Thông tin, H.2000
7. Một số già đồng thực hiện tại Đền Sơn Hải – Thờ Đức Thánh Trần và các gia tướng, Gia Trần triều- Chương Dương- Hoàn Kiếm- Hà Nội.
8. Khánh thành điện mới – DVD- Thanh đồng Nguyễn Văn Hà- 13 Trần Nguyên Hãn- Hải Phòng thực hiện.
9. Văn hóa Thánh mẫu- Đặng Văn Lung – NXB Văn hóa Thông tin, H.2004. Và nhiều báo chí phổ thông khác…
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu khoa học
12/03/2010 - 01:41 AM
Ba chú cháu và 9 năm tù oan
(PL)- Dòng họ Nguyễn Đình ở Yên Nghĩa, Hà Đông, Hà Nội năm nay ăn tết to, rất to. Bởi tết này, ba chú cháu Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên được đoàn tụ với gia đình sau 9 năm tù oan.
• Ân nhân và cuộc giải oan
LTS: Ba chú cháu ngồi tù chín năm về tội cướp của, hiếp dâm. Họ vừa được VKSND Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng vô tội và trả tự do. Quá trình xem xét cho thấy những chứng cứ ngoại phạm đã bị bỏ qua, quá trình tố tụng có nhiều sai sót. Chín năm ròng rã, họ không hề xin giảm án, tha tù trước hạn, chỉ một mực kêu oan.
Đêm cuối tháng 10-2000, trên cánh đồng thôn La Cả, xã Dương Nội, huyện Hoài Đức, Hà Tây (cũ) xảy ra một vụ hiếp dâm, cướp tài sản. Nạn nhận là anh Nguyễn Chính Hải và chị Nguyễn Thị Hồng Hạnh, đang ngồi tâm sự bên mương nước thì bất ngờ bị ba người lạ khống chế, cướp nhẫn, đồng hồ, tiền mặt. Chúng còn thay nhau cưỡng hiếp chị Hạnh và đánh gây thương tích anh Hải.
Tai họa ập xuống
Ngay lập tức Công an Hà Tây cử hai nhóm điều tra viên xuống hai xã Dương Nội, Yên Nghĩa. Tuy nhiên, không có nhiều manh mối. Tang vật hung thủ để lại hiện trường có mỗi chiếc áo phông. Dấu vết tinh trùng lấy từ nạn nhân nữ lại không đủ để giám định AND…
Hai tháng sau, có một phụ nữ cho biết chiếc áo các điều tra viên lượm được giống áo mà Nguyễn Đình Lợi, người Yên Nghĩa, hay mặc. Cạnh đó là nhân thân Lợi: Bỏ học sớm, hay gây lộn, từng tham gia một vụ đánh nhau vì tranh chấp gái làng. Đêm xảy ra vụ án, ba chú cháu nhà Nguyễn Đình có đi chơi chung với nhau.
Lợi kể: Chiều 12-12-2000, anh đang ở tiệm sửa xe máy của gia đình thì có ba anh công an dắt xe tới. Họ bảo xe bị chết máy, không nổ được. Vừa chỉnh sửa, chàng thanh niên 18 tuổi vừa trò chuyện với khách. Xe sửa xong, các anh bảo Lợi đưa lên UBND xã Yên Nghĩa có việc. Tại đây, bất ngờ họ rút ra lệnh bắt vì việc đánh nhau xảy ra từ năm 1998, rồi dẫn giải đến cơ sở II của Công an Hà Tây.
Ảnh trên:Ba chú cháu Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Kiên (từ trái qua) tiếp tục chuẩn bị chứng cứ để yêu cầu cơ quan tố tụng xin lỗi, bồi thường. Ảnh: NGHĨA NHÂN
“Vụ xô xát ấy, mấy gia đình hòa giải với nhau rồi, sao giờ lại bắt mình nhỉ?” - Lợi thắc mắc.
Từ cơ sở II rồi lên trại Xa La của Công an Hà Tây, sau ba ngày hỏi cung thì cậu nhận tội.
“Ban đầu em chỉ nhận bừa là vụ cướp, hiếp ấy có mình em tham gia thực hiện. Mấy chú công an lại khảo tiếp, bảo có ba thằng cơ mà. Rồi họ hỏi tối ấy đi chơi với ai. Thế là em khai ra có đi chơi với chú Tình và Kiên” - Lợi nhớ lại.
Tình kém Lợi một tuổi nhưng vai vế trong họ là bậc chú. Cháu bị bắt ngày 12 thì chiều 13, chú bị gọi lên xã và bị bắt khẩn cấp về tội cướp của, hiếp dâm. Tình một mực kêu oan nhưng không được.
Nhưng cứ sau mỗi lần khai, được về phòng giam, tỉnh táo lên một chút, đến hôm sau cậu lại phản cung. Thế là ròng rã hơn tháng trời, cứ tuần tự phản cung - nhận - lại phản cung.
Thời gian Lợi và Tình bị bắt, Kiên cũng mới 18 tuổi, đang thực hiện nghĩa vụ quân sự, đóng quân gần Sơn Tây, chẳng biết gì cả. Bất ngờ tối 15-12-2000, đơn vị thông báo cho ra quân sớm vì gia đình khó khăn. “Em rất thắc mắc vì có thấy bố mẹ báo tin hay xin gì đâu” - cậu nhớ lại. Đến sáng hôm sau, đơn vị cho người đưa về trụ sở xã, nói là làm thủ tục bàn giao lĩnh nghĩa vụ. Nhưng tới nơi thì thấy có mấy chú công an chờ sẵn.
Bố Kiên là sĩ quan quân đội nghỉ hưu, làm tổ trưởng an ninh xã nên rất nghiêm khắc với con. Nghe mấy chú công an nói con mình liên quan đến vụ cướp tài sản mấy trăm ngàn thôi nên cũng khuyên Kiên viết đơn đầu thú. Trong lúc bối rối, cậu đành “tự thú” là có tham gia vụ cướp của đôi trai gái, được chia 80.000 đồng chứ chẳng nói gì tới hành vi hiếp dâm cả. Nhưng tới nhà tạm giam, sau khi bị lấy cung, cuối cùng cậu đành nhận tội.
Mất năm tháng thì Công an Hà Tây điều tra xong vụ án. Tuy nhiên, các bản cung chứa đựng đầy mâu thuẫn. Dù vậy, hồ sơ lộn xộn ấy vẫn “lọt” qua khâu kiểm sát của VKSND tỉnh Hà Tây, rồi lần lượt ra tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
Trong tù, Tình chép lại quan điểm bào chữa của luật sư làm cơ sở cho những lá đơn kêu oan. Cậu cũng tỉ mỉ ghi lại thời gian từng lá đơn được gửi đi, người nhận, chức danh. Ảnh: NGHĨA NHÂN
Án tù
Nguyễn Đình Tình giờ đã được trả tự do nhưng vẫn nhớ như in phiên tòa sơ thẩm ngày 21-1-2002. “Bữa đó, em nói với đại diện hai gia đình bị hại: Cháu biết gia đình bác rất hận. Nhưng quan trọng là cháu không phải là thủ phạm. Mấy người đó có nhìn lại nhưng thực sự không thấy ở họ cái nhìn căm thù gì cả”.
Tại phiên xử ấy, lần đầu tiên sau hơn một năm bị tạm giam, ba chú cháu Tình, Lợi, Kiên mới gặp nhau. Vẫn bị cách ly, cấm trao đổi nhưng cả ba đều một mực kêu oan. Tới khi được yêu cầu nói lời sau cùng, Tình phát biểu: “Tôi không phạm tội, đề nghị HĐXX cho điều tra lại từ đầu. Nếu không thì cho tôi mức án tử hình”. Về phía luật sư, từng điểm mâu thuẫn, thiếu thuyết phục trong hồ sơ vụ án đều được trình bày trước tòa.
HĐXX khẳng định mặc dù tại tòa, các bị cáo không nhận tội nhưng lời khai nhận tội của họ tại cơ quan điều tra đã đủ khẳng định cả ba là thủ phạm. Tòa tuyên phạt Lợi 16 năm tù tổng hợp cả hai tội cướp, hiếp; Tình 14 năm tù và Kiên nhẹ nhất 11 năm tù.
Phiên tòa phúc thẩm sau đó đã y án.
Mâu thuẫn khó lý giải
Vợ chồng luật sư Phạm Thanh Bình và Nông Thị Hồng Hà (Đoàn Luật sư Hà Nội) nhận lời bảo vệ cho ba bị can. Họ băn khoăn khi hồ sơ thể hiện án được phát hiện qua truy xét, chủ yếu dựa vào lời khai của bị hại, lời khai nhận tội của các bị cáo… nhưng so sánh thấy rất nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn, lời kể đầu tiên của nạn nhân nam với những người tới cứu giúp là trong ba kẻ phạm tội, có một tên mặt choắt, nói giọng La Cả rất khó nghe. Nạn nhân nữ còn khẳng định cả ba tên đều nói giọng La Cả, trong đó có “một thằng già có ria mép”. Còn ba chú cháu họ Nguyễn Đình lúc ấy đều sàn sàn 18-19 tuổi và chẳng ai là người La Cả.
Cũng lời khai của nạn nhân và các bị can, hướng đi tới của những kẻ gây án khi thì từ hướng này, khi thì từ hướng khác. Các tình tiết liên quan đến hành vi hiếp dâm, lột đồng hồ, nhẫn vàng, khuyên tai, móc ví… cũng đầy mâu thuẫn về cả thứ tự và đối tượng thực hiện tội phạm.
Vật chứng duy nhất có giá trị là chiếc áo phông mà thủ phạm bỏ lại hiện trường và nạn nhân nữ nhặt được. Cô đã đưa ngay cho những cán bộ ở đơn vị quân đội đóng bên kia bờ mương xem ngay sau khi họ nghe tiếng kêu cứu và ra cứu giúp. Lời khai của cô và các nhân chứng này đều xác nhận đó là chiếc áo phông màu đỏ, cổ bẻ, có sọc ngang màu vàng, xanh. Chiếc áo ngay đêm ấy được giao cho Công an xã Dương Nội. Về sau, chính chiếc áo đã giúp Công an Hà Tây xác định Nguyễn Đình Lợi là đối tượng hiềm nghi. Thế nhưng biên bản hiện trường thực hiện ngày hôm sau lại thể hiện chiếc áo có đặc điểm khác. Lời khai nhận dạng chiếc áo của từng bị can và giữa các bị can cũng rất khác nhau, lúc thì màu xanh đỏ, lúc xanh đen, lúc khác đen đỏ… Thậm chí tang vật quan trọng như vậy nhưng tới tòa sơ thẩm thì chiếc áo biến mất với lý do để trong kho vật chứng hơn một năm nên bị mục nát (?). Tương tự, thời gian xảy ra vụ án được kết luận là khoảng 21 giờ đêm, trong khi những nhân chứng đầu tiên nghe lời hô hoán, ra cứu giúp khẳng định là khoảng 22-22 giờ 30.
Nhận tội được chừng 20 ngày thì bị can Nguyễn Đình Tình này bắt đầu phản cung quyết liệt. Cậu ta khẳng định tối ấy đã cùng Lợi đến dự sinh nhật một bạn gái cùng xã. Các điều tra viên đã về địa phương xác minh lời khai này và đã được nhiều nhân chứng xác thực. Tuy nhiên, chứng cứ ngoại phạm đó lại không thấy trong hồ sơ vụ án.
NGHĨA NHÂN
Kỳ sau:Ân nhân và cuộc giải oan
Lâm trọng bệnh trong thời gian ở tù, Lợi được đưa đến bệnh viện. Tại đây anh đã gặp một ân nhân âm thầm giúp anh kêu oan. 13/03/2010 - 01:17 AM
NỖI OAN CỦA MỘT DÒNG HỌ - BÀI 2:
Ân nhân và cuộc giải oan
Họ đã được trả tự do sau chín năm tù đằng đẵng nhưng uẩn khúc trong vụ án vẫn chưa được sáng tỏ: Ai là thủ phạm vụ cướp của, hiếp dâm? Ai phải chịu trách nhiệm khi đẩy ba thanh niên trẻ vào vòng lao lý?
• Ba chú cháu và 9 năm tù oan
Chuyện ba chú cháu Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên bị tòa tuyên cùng phạm tội cướp của, hiếp dâm lan nhanh. Cả họ Nguyễn Đình đau đớn, nhục nhã mà chẳng biết làm sao giãi bày.
Chỉ kêu oan, không xin giảm án
Còn với Tình, Lợi, Kiên, sau song sắt trại giam vẫn hy vọng đến một ngày nỗi oan của mình được sáng tỏ. Tháng 7-2002, cả ba được chuyển đến trại giam Thanh Xuân để thụ án. Ngày đầu tiên ở cơ sở mới, học nội quy trại họ mới được gặp nhau. Họ động viên nhau cùng cố gắng chấp hành tốt nội quy, giữ kỷ luật nghiêm và kiên trì kêu oan.
Nguyễn Đình Tình kể, cuộc sống trong trại giam cứ tuần tự, mùa hè thì 5 giờ 30 kẻng báo thức, mùa đông thì 6 giờ. Các phạm nhân ra sân xếp hàng điểm danh, điểm diện rồi đi làm. Tối thì sinh hoạt văn hóa, nghỉ ngơi, xem tivi. Riêng ba chú cháu, cứ rảnh rỗi là lên thư viện đọc sách báo. Mỗi người sắm một tập viết để ghi chép những gì đáng lưu tâm.
Sách báo thiếu thốn, họ nhờ gia đình tìm thêm tạp chí, sách vở, quan trọng nhất vẫn là mấy cuốn sách về luật hình sự, tố tụng hình sự, rồi từ điển thuật ngữ pháp lý. Những văn bản của luật sư từng bào chữa trong vụ án của mình cũng được họ ghi chép lại để hiểu rõ hơn các căn cứ viết đơn kêu oan.
Tháng nào, Tình, Lợi, Kiên cũng viết đơn kêu oan. Có cán bộ trại giam hỏi định kêu oan đến bao giờ, Tình đáp: “Thưa cán bộ, nếu phải đi hết 14 năm tù mà sự thật chưa sáng tỏ, thì về xã hội rồi, tôi tiếp tục kêu”. Ở nhà, ba gia đình cũng cắt cử nhau viết đơn kêu oan cho con. Kiên trì như vậy đến năm 2004 thì họ nhận được văn bản trả lời của cả TAND Tối cao và VKSND Tối cao rằng không có căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm bản án. Riêng Tình, giữa năm 2007 bị chuyển sang trại Tân Lập ở Phú Thọ thụ án. Tại đây, anh lại tiếp tục viết đơn kêu oan.
Mẹ của Nguyễn Đình Lợi (trái) đến chúc tết ân nhân của gia đình - bà Phạm Thị Hồng.
Thành khẩn nhận tội là tiêu chí bắt buộc để đánh giá hạnh kiểm phạm nhân. Cho nên, chú cháu Tình dù chăm chỉ lao động, tuân thủ nội quy trại nhưng hằng năm cũng vẫn bị xếp loại kém. Gần như năm nào ba gia đình ở quê cũng nhận được văn bản, thậm chí là điện thoại nhắc nhở của quản giáo trại. “Họ bảo gia đình nên khuyên các cháu dừng viết đơn, nhận tội đi để được xét giảm án” - cha của Lợi kể. Còn trong trại, rất nhiều bạn tù nói chú cháu Tình là điên, hâm. Người thông cảm, chia sẻ thì khuyên “con kiến kiện củ khoai sao được, nhận đi để được giảm án mà về sớm”. Nhưng họ vẫn kiên trì con đường đã chọn.
Gặp ân nhân
Tháng 4-2008, Nguyễn Đình Lợi bị liệt nửa người, được trại Thanh Xuân chuyển đến Bệnh viện Hà Đông để chữa trị. Tại đây, cậu gặp bà Phạm Thị Hồng, cán bộ khoa Phục hồi chức năng.
Bà Hồng nguyên quán huyện Ba Tri, Bến Tre, là con của hai liệt sĩ hy sinh thời chống Mỹ. Từng chăm sóc nhiều bệnh nhân là phạm nhân của trại Thanh Xuân, bà thường quan tâm hỏi han hoàn cảnh, lý do tù tội của họ. Có người thắc mắc việc gì phải quan tâm tới bọn tù như thế, bà nói: “Với pháp luật họ là tù nhân nhưng với tôi họ là bệnh nhân”.
Tới khi gặp và nghe Lợi kêu oan, bà Hồng tò mò tìm hiểu, và dần dần cảm nhận oan thật. Để làm rõ thêm, bà lần tìm lại đôi nam nữ bị hại xưa kia, nay đã có gia đình riêng và không muốn nhắc lại chuyện cũ. Tuy nhiên, trước sự nhiệt tình của bà, họ kể lại đúng những gì đã khai báo với cơ quan điều tra: Thủ phạm ba tên nói giọng La Cả, một già hai trẻ. Bà Hồng cũng lần tìm tới những nhân chứng khẳng định bằng chứng ngoại phạm của chú cháu Lợi, cũng như những cán bộ ở đơn vị quân đội đóng bên bờ mương gần hiện trường vụ án…
Bà Hồng cho biết bà được ra Bắc ăn học là nhờ vào đồng đội của ba má - nhiều người trong số đó giờ đây đang là những cán bộ cao cấp. Chính vì vậy, khi có đủ thông tin khẳng định nghi vấn án oan là bà viết đơn và chuyển thẳng cho lãnh đạo trung ương.
Ba chú cháu Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Kiên (từ trái qua).
Nửa đường công lý
Những lá đơn kêu oan hộ của “người dưng nước lã” như thế cuối cùng được Công an Hà Nội xem xét lại. Các điều tra viên đã tìm đến vợ chồng luật sư Phạm Thanh Bình và may mắn tìm được những tài liệu, chứng cứ gốc có giá trị chứng minh ngoại phạm mà luật sư đã thu thập được tám năm trước đến nay vẫn còn lưu giữ.
Đầu tháng 12-2009, ba ngành tố tụng Hà Nội đã họp và thống nhất đánh giá quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án cướp, hiếp ở Yên Nghĩa, Hà Tây cũ có nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, án đã có hiệu lực pháp luật nên thẩm quyền giải quyết thuộc về TAND Tối cao và VKSND Tối cao.
Cũng thời gian này, VKSND Tối cao đã cử người tìm hiểu lại vụ án. Cuối tháng 1 vừa qua, cơ quan này ra kháng nghị giám đốc thẩm, mổ xẻ kỹ chín mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án và kết luận: Cơ quan điều tra đã điều tra thiếu khách quan, không đầy đủ, triệt để; nhiều chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ để kết luận; công tác điều tra có nhiều vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng. Các bản án sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ vào tài liệu điều tra thiếu khách quan để kết tội các bị cáo là không có căn cứ. Vì vậy, VKSND Tối cao đề nghị TAND Tối cao giám đốc thẩm bản án phúc thẩm, tuyên các bị cáo không phạm tội cướp, hiếp.
Công lý đã đến với ba chú cháu dòng họ Nguyễn Đình ở Yên Nghĩa. Nhưng uẩn khúc trong vụ án xảy ra hơn chín năm trước vẫn chưa được sáng tỏ: Ai là thủ phạm vụ cướp của, hiếp dâm từng gây chấn động? Ai phải chịu trách nhiệm khi đẩy ba thanh niên trẻ vào vòng lao lý? Tại sao ngần ấy năm họ và gia đình kiên trì kêu oan mà đến giờ vụ án đầy sai sót này mới được xem xét? Quyền lợi của họ và gia đình sẽ được giải quyết thế nào? Những câu hỏi ấy cần được các cơ quan tiến hành tố tụng khẩn trương trả lời.
Vợ chồng luật sư Phạm Thanh Bình sau phiên sơ thẩm vẫn không nản chí. Họ tới gặp từng nhân chứng trong vụ án. Luật sư Bình kể lại: “Chúng tôi thấy lời khai phản cung của Tình có khá nhiều tình tiết ngoại phạm nhưng lại chưa được làm rõ, vậy là mình lại phải điều tra lại". Luật sư đã đến gặp một thành viên ban an ninh thôn và được anh này kể rằng chính anh đã đưa điều tra viên đi gặp và lấy lời khai một số thanh niên địa phương mà Tình nói họ có thể làm chứng ngoại phạm. Có mặt cả cán bộ thôn, cả điều tra viên, họ đều khẳng định có gặp Tình, Lợi vào khoảng 22 giờ 15 đến 22 giờ 30 đêm xảy ra vụ án ở địa điểm cách hiện trường vụ án hơn 2 km. Nghe nói vậy, luật sư Bình liền đối chiếu lại hồ sơ vụ án thì chả thấy bản khai nào như vậy cả. “Tôi thoáng nghi ngờ là vụ án này cơ quan điều tra chủ động để ra ngoài những bút lục có lợi cho bị cáo nên quyết định phải đến gặp từng nhân chứng”.
Một trong rất nhiều những lá đơn kêu oan.
Rất thận trọng, luật sư tới UBND xã Yên Nghĩa đề nghị giúp đỡ. Vậy là cùng với cán bộ công an xã, luật sư lần lượt đến nhà sáu nhân chứng chủ chốt từng làm việc với Công an Hà Tây. Họ đều viết giấy xác nhận lại đúng những gì đã khai với cơ quan điều tra. Mỗi giấy xác nhận như vậy lại được công an xã chứng kiến, ký làm chứng. Luật sư còn gặp được người từng xác nhận với Công an Hà Tây rằng chiếc áo tang vật thu được tại hiện trường là của Lợi. Người này kể lại: “Hôm ấy, các chú công an nói là Lợi nhận hết rồi và bà con ở làng cũng thừa nhận là của nó nên tôi mới khai vậy cho xong việc để còn đi làm”.
Thế nhưng những nỗ lực trên của luật sư không được cấp phúc thẩm xem xét. Tháng 4-2002, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội mở phiên xử, tuyên y án sơ thẩm với cả ba chú cháu Tình, Lợi, Kiên.
NGHĨA NHÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét