Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010

SỨC LAN TỎA

Hôm nay 16/3/2010 6:40AM, thứ ba ra 11 PĐC để vào mạng chạy tốt mình đăng hai bài, khi mang nước về cho bầm, trở lại mất điện thay bằng nguồn khác và nét lại mất, thật may mình đã viết xong bài của hôm qua trên hai Bolg và xem một số tin mới nhất của vn.yahoo.com và lưu trên máy. 9:00 về bầm cho MIC ăn, đắp lại chăn cho bầm ngồi ấm hơn, hạ lễ ngày mùng một...trở lại vẫn chưa có NET...
Sáng nay ngày 1/2/Canh Dần Tháp vào cụ Ba Tý xem công việc ra sao đây là ngày mùng một đầu tiên sau khi cụ Ba mất...
Rảnh nên mình lấy tứ của VOV3 nói về sức lan tỏa của các bài ca CM trong kháng chiến làm tựa đề cho câu chuyện thời sự hôm nay; 10 14 tiếp tục có mạng trở lại và mình đăng bài mới...



SỨC LAN TỎA


Sức mạnh trên công luận
Nó lan tỏa thật nhanh
Bởi ngòi bút nổi danh
Vì lời văn trong sáng

Diễn thuyết đầy tâm trạng
Trung thực và dựng xây
Lời mộc mạc thẳng ngay
Đi vào lòng cử tọa

Phản biện không thóa mạ
Phê phán chẳng dập vùi
Góp ý, chút hài khôi
Lòng người nghe thỏa mãn...

Năm con Hùm qua hạn
Chợ Nghệ của chúng tôi
Từ chỗ bị dập vùi
Cùng Thăng Long tỏa sáng...


* Viết hồi 9:24 AM ngày thứ bảy 16/3/2010 tại 11 Phó Đức Chính; tg Vũ Tản Hồng.
NGUYỄN KHUYẾN VỚI THƠ XUÂN
Trần Trung



Nói đến vẻ thanh cao, nét tinh tế trong hồn thơ Nguyễn Khuyến, người đời thường nhắc đến ba bài thơ thu nức tiếng của ông.
Với Tam Nguyên Yên Đổ, những bài thơ về mùa xuân của ông (phần lớn là thơ Hán tự) một mặt nằm trong phong cách thơ ông; nhưng, một mặt khác vẫn mang dư vị, dáng vẻ riêng - độc đáo và ấn tượng.
Chất men say cảm hứng trong thơ Nguyễn tiên sinh, không phải là chất men sảng khoái, phóng lãng. Mà, là tinh chất, là vị đạm thấm thía, đượm buồn của một thi nhân tài cao, học rộng. Thế mà, vẫn sẵn sàng rũ bỏ bụi công danh, danh lợi để trở lại vườn Bùi quê hương. Để sống đạm bạc với thiên nhiên nơi thôn hương cùng những người dân quê đồng chiêm trũng: lam lũ, vất vả mà tình nghĩa.
Tết đến, xuân về - lẽ thường tình là vui, là ấm áp. Song, thi nhân họ Nguyễn lại viết những câu thơ buồn thương, day dứt:
“Tuổi xuân, thêm được tóc râu phờ
Nay đã năm mươi có lẻ ba
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”
(Ngày xuân dặn các con)
Nguyễn Du, trong lần đi sứ Tàu, nơi xa xôi biên ải, từng viết những câu thơ giá buốt tâm tư:
“Tóc sương là bạn đi cùng
Hai tuần chỉ thấy trập trùng núi xanh
Ơn vua chưa đáp chút tình
Mưa xuân nhuần thấm mà mình lạnh xương”
(Trên đường qua Nam quan - thơ dịch)
Còn, Nguyễn Khuyến - ở nơi làng quê Hà Nam, một năm nào đó, thi nhân đã đón những giọt mưa xuân của trời và giao thoa cộng hưởng với mưa tự lòng người:
“Mong xuân, xuân đến không hay
Hạt mưa lất phất từng mây im lìm”
(Xuân Nhật- số 3)
Chao ôi! Bẽ bàng làm sao! Trớ trêu làm sao! Xuân đến còn nghĩa lý gì khi nước mất, nhà tan! Yên Đổ hạ bút trong lời thơ thật đắng lòng, chua xót: “Trước cảnh loạn li, mầu xuân thật trơ trẽn”(Loạn li xuân sắc chân vô lại – Xuân nhật thị chư nhi, 2). Tất nhiên ở một góc nhìn – xúc cảm ân tình khác, Nguyễn Khuyến vẫn vui vẻ sẻ chia với cảnh, với người quê nét phong tục và tâm lý:
“Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt”
(Cảnh tết)
Tâm hồn vốn lặng lẽ, thanh đạm của Nguyễn Khuyến cũng bắt rất nhạy cảm giác se lạnh mà cũng thật quyến rũ và ngọn gió đông mỗi độ xuân về: “Gió đông phơi phới rước xuân vào”
Song, những câu thơ xuân phơi phới và ấm áp ấy không nhiều. Tiếng gọi bất chợt của quy luật muôn đời, với Nguyễn khuyến, với cảnh ngộ của riêng ông, vẫn ám ảnh và ăm ắp dư vị buồn đau:
“Năm mới đến, năm cũ qua
Mọi người vui vẻ sao ta riêng buồn”
(Xuân Nguyễn hữu cảm)
Nguyễn Khuyến “tự thương mình” vì thấy mình “chỉ là một hủ nho trong cảnh nhiễu nhương gió bụi” (Xuân bệnh - số 3). Từ nỗi ám ảnh nội tâm, khiến người thơ vừa chợt tả cảnh xuân với những câu thơ nào phải hờ hững, vô tình:
“… Hạt mưa lất phất tầng mây im lìm
Cây xanh nảy lộc bên thềm
Trên trời, dưới nước cá chim vẫy vùng”
Thì, cũng liền đó, hình ảnh nhà thơ - tượng hình lên, sao mà buồn đau đến thế:
“Trước song say lại nằm khoèo
Những toan xỏ dép mà trèo non xanh”
Nguyễn Khuyến từng viết: “Sống thoi thóp rất là suy yếu; Đến nỗi xuân đi, xuân lại cũng không hay…”. Nhưng, đọc kỹ mới nhận ra trong thơ ông điều này: sự suy yếu của thể chất, chỉ là một phần; Nỗi lòng đau cảnh ngộ và phận người mới thật sự ám ảnh trong ông:
“Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”
(Ngày xuân dặn các con)
Và, để rồi thi nhân buồn chán với chính mình, vì thấy:
“Lối học cũ viển vông, sống có ích gì”
(Xuân nhật hữu cảm)
Buồn đau và liên tưởng, và nghĩ suy từ cái “chết chỗ quang minh” của con thiêu thân lao mình vào lửa sáng:
“Giống lông cánh, phận mình nho nhỏ
Chết là yên, chết chỗ quang minh
…. Đèn chong chừng cũng thương mình
Thân tàn ra bụi, lệ tình chưa khô”
(Đêm xuân thương con thiêu thân - Xuân dạ liên nga)
Nhà thơ Xuân Diệu từng có lời bình phẩm giản dị mà sâu sắc về Nguyễn Khuyến: “Nguyễn Khuyến là con người trí rất sắc mà tâm lại rất hiền!”
Thử đọc lại và suy ngẫm một vài điều mà Tam nguyên Yên Đổ đã dạy con nhân ngày xuân (một loạt bài “Xuân nhật, thị chư nhị”- Ngày xuân dạy các con):
“Bể học cần nên phòng ngừa sự tràn lan
Nhà Nho nhất thiết chớ ngại đói rét”
Với văn chương, Nguyễn Khuyến lưu tâm cho con (cũng là cho hậu thế muôn đời!): yêu cầu tinh sâu của kiến thức trong “bể học” mênh mang, chỉ đầy lên theo thời gian chứ không bao giờ vơi cạn. Nguyễn Khuyến biết hướng đạo cho con đi qua cái rộng dài của “Thiên kinh vạn quyển”… để rồi cũng biết đứng lại lo “thâm canh” cho vốn tri thức của mình. Nguyễn Khuyến dặn con: “Nhà Nho nhất thiết chớ ngại đói rét” cũng chính là muốn con phải đứng vững trước cuộc đời mà cảnh cơ hàn, phong trần từ đời luôn thử thách, đón đợi.
“Các con nối chí cha nên biết
Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà”
Con người từng đứng trên đỉnh cao huy hoàng của sự nghiệp bút nghiên như Tam Nguyên Yên Đổ tiên sinh, cũng là con người ý thức về sự gắn bó máu thịt với quê hương, với những con người “một nắng hai sương”, “chân lấm tay bùn”.
Những lời căn dặn cháu con vừa sâu sắc mà cũng rất đỗi ân tình đó, phải chăng đã được chắt lọc và vắt ra từ tâm, từ trí của một con người tài hoa - kinh lịch như Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến không bao giờ ngạo mạn với mười năm “mũ mãng cân đai” ở chốn quan trường. Với ông, đó là những năm tháng “bôn ba” nhọc nhằn. Và may mắn làm sao, người thơ đã sớm “trở về” quê hương Yên Đổ, nghèo nàn mà nặng tình nặng nghĩa của mình. Cũng may mắn làm sao, khi trở lại vườn Bùi quê nhà, nhà thơ ngộ ra rằng đã không bị mất đi con người thật của mình: “Trở về may mắn, ta còn là ta!”.
Đọc thơ xuân Nguyễn Khuyến (vỏn vẹn trên dưới mươi bài!) khiến ta xúc động và cảm phục bởi một tâm hồn chứa nhiều u uẩn, dằn vặt song vẫn luôn “gìn vàng giữ ngọc”; luôn hướng tới cái trong lành, thanh nhã và cao thượng. Thơ xuân Nguyễn Khuyến vừa làm cho ta đồng cảm, mến thương nỗi niềm tâm sự từ ông; lại vừa giác đạo cho ta nhiều bài học đáng quý - nhất là bài học về Đạo – Lý - Làm - Người.

Thứ ba ngày 16/3/2010


Thứ Sáu, 12/03/2010 - 11:52 AM
Người giữ “hồn dó” ở lại trần gian
Đau lòng và trăn trở trước nguy cơ nghề cổ bị thất truyền, bao năm nay, ông Nguyễn Thế Đoán không ngại khó, ngại khổ, một mình cần mẫn xoay xở, lặn lội hàng trăm cây số để tìm mua nguyên vật liệu chuẩn bị sự cho sự hồi sinh của một làng nghề.
Canh cánh nghề cổ cha ông

Gia đình ông Nguyễn Thế Đoán ở tận trong ngõ sâu của làng Đông Xã (còn gọi là làng Đông), phường Bưởi, quận Tây Hồ, Hà Nội. Nơi đây vốn là một thôn của làng Yên Thái cũ, nổi tiếng với nghề làm giấy dó lụa truyền thống. Xưa kia cả làng Yên Thái chuyên làm giấy dó cho các triều đại vua Lê. Có lẽ vì thế mà ngay từ rất sớm cậu bé Nguyễn Thế Đoán đã được làm quen với nghề.


Dù đã 75 tuổi nhưng ông Nguyễn Thế Đoán vẫn tâm huyết với nghề truyền thống đất Thăng Long. (Ảnh: Thúy Hạnh)

Dù năm nay đã bước sang tuổi 75, nhưng ông còn nhớ như in hình ảnh của làng nghề năm xưa. Khi ấy, nhà nhà làm giấy, phường Yên Thái tấp nập người lại qua, sáng tinh sương đã nghe thấy tiếng chày nện cối. Lên 10 tuổi, ông đã bắt đầu biết phụ cha làm giấy và dần biết rành rẽ từng khâu của quá trình này, từ việc xử lý vỏ cây, đạp bìa, giặt dó, giã dó, nấu dó, lọc dó, seo giấy rồi đến bóc giấy. Trong làng không lúc nào ngớt âm thanh rộn rã của tiếng chày giã giấy, cuộc sống sung túc bao trùm các nóc nhà.

Trong làng xưa cũng có nhiều nhà làm nhiều loại giấy khác nhau, có nhà làm giấy lệnh, giấy bản, có nhà lại làm giấy quạt, giấy vuông, riêng nhà ông Đoán chỉ chuyên làm giấy dó, loại giấy mà chỉ những chi trưởng của dòng họ Nguyễn Thế mới được làm. Ông bảo: “Vì đây là nghề quý của ông cha để lại, cả làng này chỉ có giấy dó lụa của dòng họ Nguyễn Thế mới đủ độ dai, độ bóng để tiến vua, vì vậy bí quyết truyền nghề không bao giờ được tiết lộ”. Chẳng thế mà khi lựa vợ cho con trai dòng họ Nguyễn Thế, tiêu chuẩn đầu tiên bao giờ cũng phải là những người phụ nữ biết seo giấy khéo. Người seo khéo là người san giấy đều, múc lượng dó chỉ vừa đủ, không được tràn, tờ giấy khi ra phải đảm bảo độ mỏng, độ dai và bề mặt phải láng mịn, trơn bóng.

Ông cho biết để làm được ra một tờ giấy dó lụa đúng tiêu chuẩn thì cần phải có quá trình chuẩn bị mất đến nửa tháng trời, từ khâu lựa vỏ cây cho đến các kỹ thuật và quy trình pha chế, phải đảm bảo tỉ mỉ từng bước, nóng vội một chút là hỏng ngay. Thứ vỏ cây để làm giấy dó lụa tốt nhất phải là vỏ cây cãnh, loại cây này cho sợi nhỏ, mềm mà dai. Mà theo như cách nói của ông thì đây là loại cây tinh túy nhất, chỉ khi bí lắm thì mới phải trộn thêm vỏ cây dó, nhưng phải là dó lớp thứ 3, lớp sát với vỏ thân cây, có vậy thì tờ giấy khi thành phẩm mới được bền, chắc và không bị mục, bở, mối mọt.


Làm giấy dó là nghề cổ có từ hàng trăm năm nay. (Ảnh: Báo Hà Nội Mới)

Dù biết làm nghề từ nhỏ, nhưng sau này do hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, ông xung phong đi bộ đội, tham gia kháng chiến, sự nghiệp của cha ông đành tạm gác lại. Sau năm 1966, ông đã có thời gian công tác hơn chục năm tại nhà in báo Hà Nội Mới, là công nhân trực tiếp phụ trách máy dao, sau đó lại tiếp tục cử đi học tại nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ. Với kinh nghiệm sẵn có trong tay lại được tiếp thu thêm những kỹ thuật sản xuất giấy hiện đại, lòng ông như hun đúc thêm ý chí phục dựng lại nghề làm giấy dó của ông cha. Sau này, khi đã về hưu, ý chí và ước mong ấy vẫn canh cánh trong lòng ông khôn nguôi.

Ông bảo: “Cái nghề này cầu kỳ, quy chuẩn là thế, nhưng già rồi tôi vẫn muốn phục dựng. Một nghề quý là thế, tinh túy, danh giá là vậy thì bằng mọi cách không thể để nó thất truyền”.

Thổi hồn để giấy dó hồi sinh

Nói là làm, 2 năm qua, dù bận trăm công nghìn việc tại đình Đông Xã với chức thủ từ và phó ban quản lý di tích phường Bưởi nhưng ông vẫn âm thầm tất bật chuẩn bị đồ nghề cho mẻ giấy dó hồi sinh vào đầu năm tới. Căn nhà nhỏ 52m2 của gia đình ông nằm sâu trong ngõ vốn đã nhỏ cho 11 người sống thì nay lại thêm bộn bề với nào cối, nào chày, nào liềm, nào khuôn seo, thép can giấy, phên, sọt, rá, phanh được che đậy cẩn thận choán hết gần nửa sân. Căn bếp nhỏ cũng hẹp lại bởi những bó cãnh phơi khô.

Để có được những thứ đồ nghề ấy, mấy năm qua ông phải đi dò hỏi từng nhà trong làng để mua lại. Riêng cây cãnh, ông phải tất bật ngược xuôi để tìm mua. Ông hồ hởi nói:“Dù tuổi đã cao, nhưng bù lại trời cho mình sức khỏe, hơn nữa vì say nghề, muốn tạo dựng lại nghề mà mình như trẻ ra. Đi nhiều mà vẫn không thấy mỏi”. Cứ thế, bằng lòng nhiệt huyết của tuổi 75, ông một mình lặn lội sang tận Bắc Ninh xem cách làm giấy mới; về tận Cầu Thiều, Quán Dắt ở Triệu Sơn - Thanh Hóa mua vỏ cây cãnh làm nguyên liệu mà chẳng được, ông lại tìm lên Phú Thọ để mua. Có buổi đến Thạch Thất mua rá, phên, phanh, sọt để làm nghề... “Tôi tự đi, cứ một mình một xe máy, xa thì sáng đi tối về, thậm chí đôi ba ngày cũng có, gần thì nửa buổi”.


Ông Đoán đang cố phục hồi một nghề đang nguy cơ thất truyền. (Ảnh: Thúy Hạnh)

Ông kể, cách đây 2 năm, ông một mình một xe máy chạy thẳng lên Phú Thọ để hỏi mua cãnh. Cây đó giờ ít nhà có lắm, nên khi hỏi được ông vui mừng khôn xiết, chỉ muốn nhảy cẫng lên. Quên cả mệt, ông tức tốc chằng buộc lên xe trở về. Nhưng vì có nhiều, nên một chuyến không thể chở hết, nên đành phải chạy đi chạy lại. Cứ thế, ông chạy dòng 1 tuần liền, cứ đi đi - về về, vậy là chở riết được 2 tạ cãnh khô. “Có hôm vì ôm vác nhiều, tay chân sứt sát hết cả, con cháu xót cho sức khỏe của tôi, khuyên tôi nên thuê ô tô chở về, nhưng tiếc tiền nên tôi lại một mình chuyên chở. Nghĩ lại thấy đúng là mình khỏe thật” - ông hào hứng kể lại.

Để sản xuất ra một tờ giấy dó lụa, tính ra chi phí cũng đến cả hơn chục nghìn đồng, đắt gấp 2-3 lần loại giấy dó thông thường. Nhưng ông bảo, tiền nào thì của ấy, loại giấy dó thường mà bên Bắc Ninh vẫn làm không thể so sánh với giấy dó lụa được. Loại giấy ấy giờ họ áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, cho cả hóa chất vào để tẩy trắng và cho giấy mau nhừ, nên giấy đó khi cho vào nước rất dễ bị bở. Như để kiểm chứng cho những gì mình nói, ông lấy ra 2 tờ giấy được cất gấp cẩn thận, một là tờ giấy dó thông thường, một là tờ giấy dó lụa. Tờ giấy kia sau khi cho vào nước là bị bung nát ra ngay, trong khi tờ giấy dó lụa vẫn giữ nguyên được bản, không hề bị sờn hay bong tróc. Có lẽ vì thế mà giấy dó lụa của dòng họ Nguyễn Thế đã được chọn để in một số tài liệu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thời kỳ chiến tranh.

Dù ngay từ nhỏ đã được ông nội dạy lại rằng: “Một tháng chỉ cần bỏ ra 5 ngày, làm đủ 2 vạn tờ giấy cũng đủ sung túc cả năm” nhưng ông cho biết dù chi phí và công sức để làm ra một tờ giấy có đắt thật đấy nhưng tôi làm không phải vì tiền, cái quan trọng là làm sao để thế hệ trẻ hiểu thế nào về “nghề giấy làng Bưởi”. Mẻ giấy sắp tới đây, ông dự định chỉ để biếu chứ không bán, “cốt sao để tạo dựng cho con cháu niềm đam mê với nghề và để người Hà Nội còn nhớ về một nghề xưa tinh túy”.

Theo VietNamnet

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét