XÃ HỘI KHÔN NGOAN BIẾT KHAI THÁC TỐT TÀI NGUYÊN TINH THẦN
Hoàng Hường thực hiện
TNc: Bài trả lời phỏng vấn dịch giả Đoàn Tử Huyến đã được đăng tải trên TuanVietNam nhưng đã cắt tỉa mấy chỗ. Của đau con xót, nhà văn Đoàn Tử Huyến muốn lên Trannhuong.com với sự "nguyên vẹn cả đầu mình và tứ chi". Xin giới thiệu với các bạn...
Xã hội khôn ngoan, sáng suốt, nhân văn thì biết bảo tồn, nâng niu, khai thác triệt để nguồn tài nguyên vô giá của dân tộc mình và của cả nhân loại để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống của mình. Nếu không, thì mỗi con người, thậm chí là cả dân tộc chỉ tồn tại vơ váo đứt đoạn trên thế gian này.
Lâu nay vấn đề tài nguyên tinh thần vốn ít được bàn đến một cách bài bản, cũng chưa có một chiến lược khai thác và phát huy tổng thể nào được đặt ra. Tuy nhiên những người tâm huyết với các giá trị văn hóa dân tộc vẫn lặng lẽ làm. Nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây chia sẻ vài suy nghĩ với Tuần Việt Nam trong những ngày đầu năm.
Tài nguyên tinh thần - giá trị không bao giờ cạn kiệt
- Khi nói đến tài nguyên, người ta thường liên tưởng ngay đến rừng, đến biển, đến khoáng sản và tiềm năng khai thác..., tóm lại là những thứ vật chất có thể cân đo được. Nhưng còn một giá trị khác là tài nguyên tinh thần có vẻ như vẫn chưa được đề cập đến, hoặc chưa được đánh giá đúng, và chưa được khai thác đầy đủ. Ông nghĩ sao?
Đúng thế. Thậm chí hình như trong các Từ điển tiếng Việt cũng chưa có khái niệm "tài nguyên tinh thần"; định nghĩa "tài nguyên" thường gắn với các loại của cải tự nhiên (chưa hoặc đang được khai thác). Tôi hiểu nôm na, "tài nguyên tinh thần" là nguồn vốn tinh thần do tiền nhân làm ra (chứ không phải tự nhiên có) để ta có thể khai thác, tạo ra các giá trị (cả tinh thần và vật chất) khác.
Điều đặc biệt đáng quý là nguồn của cải tinh thần này khi được khai thác không hề bị cạn kiệt như tài nguyên thiên nhiên, mà ngày càng trở nên được bồi đắp, giàu có. Các giá trị tinh thần chỉ có thể bị (từng cá nhân, thậm chí cả thời đại) chối từ, vùi lấp, bị chà đạp, lãng quên, hoặc không được đánh giá, khai thác đúng mà thôi.
Về nguyên lý chung, xưa nay mọi người đều công nhận tài nguyên tinh thần là tài sản vô giá của mỗi xứ sở, mỗi dân tộc, mỗi con người; vấn đề là đối xử và khai thác cụ thể các nguồn tài nguyên đó như thế nào. Xã hội khôn ngoan, sáng suốt, nhân văn thì biết bảo tồn, nâng niu, khai thác triệt để nguồn tài nguyên vô giá của dân tộc mình, và của cả nhân loại, để làm giàu cho tâm hồn và cuộc sống của mình. Nếu không, thì mỗi con người, thậm chí là cả dân tộc, chỉ tồn tại vơ váo đứt đoạn trên thế gian này.
- Các di sản, các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật là những tài nguyên tinh thần vô giá của con người, của dân tộc. Ông đánh giá như thế nào về công việc bảo tồn, khai thác, quảng bá các giá trị đó của chúng ta?
Không chối cãi rằng chúng ta đã làm được, thậm chí làm ấn tượng một số việc ở lĩnh vực này. Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng trong thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có được sự đối xử đúng với nguồn tài nguyên tinh thần của chúng ta, chúng ta có thể được hưởng. Sòng phẳng hơn mà nói, chúng ta chỉ mới đúng ở lời nói, trên "nguyên lý"; còn làm thì chưa đúng, chưa đủ.
Đã có nhiều chủ trương như tôn trọng, bảo tồn, khai thác, quảng bá, phát huy tài nguyên tinh thần của người Việt, nhưng thường mới dừng lại ở mức "chủ trương", hô hào, mà chưa có được những thực hiện cụ thể, thấu đáo khiến nhiều giá trị tinh thần không được khai thác, phát huy, thậm chí còn bị lợi dụng, mai một; hoặc giả có làm thì kết quả thường là méo mó, thảm hại, hậu quả "lợi bất cập hại", phí tiền của dân, nước.
Điều này tôi thấy khá rõ kể cả nói riêng trong lĩnh vực văn học, xuất bản mà tôi có điều kiện quan sát gần hơn.
Chúng ta được cha ông để lại một nguồn di sản không thể nói là nhỏ, cần được bảo tồn, khai thác và thụ hưởng. Thế nhưng cho đến nay, sau mười năm đầu của thế kỉ XXI, sau 35 năm hòa bình thống nhất đất nước, mà còn rất nhiều những giá trị (văn chương, tư tưởng, lịch sử) chưa được khảo cứu đến nơi đến chốn, khai thác, phổ biến rộng rãi.
Xin chỉ điểm mấy thí dụ. Nhà bác học Lê Quý Đôn để lại một di sản đồ sộ tới bốn chục bộ sách, nhưng đến nay đã có bao nhiêu trong số đó được sưu tập, dịch thuật, khảo cứu, xuất bản làm tài sản tinh thần chung cho mọi người? Đáng ra, đã phải có Toàn tập Lê Quý Đôn, Từ điển bách khoa Lê Quý Đôn rồi mới phải.
Cũng tương tự như vậy với nhiều tác gia lớn khác. Ở Hà Tĩnh chúng tôi có Hồng Sơn văn phái, một hiện tượng đặc trưng độc đáo với những tác giả, tác phẩm xuất sắc (như Nguyễn Du với Truyện Kiều, Nguyễn Huy Tự với Hoa Tiên truyện, Nguyễn Huy Hổ với Mai Đình mộng kí, cùng hàng chục nhà thơ, hàng trăm tác phẩm nổi tiếng). Nhiều học giả đã đề xuất, nhiều bạn đọc tỏ lòng mong muốn có một Tổng tập Hồng Sơn văn phái (chắc chắn sẽ là tài sản tinh thần rất có giá trị), nhưng đến nay chỉ mới có một số ít được xuất bản bằng sự cố gắng của vài cá nhân, dòng họ...
Ngay đối với các tác phẩm của Việt Nam thế kỉ XX, đặc biệt là giai đoạn nửa đầu thế kỉ, vẫn còn những khoảng trắng trong bản đồ xuất bản hiện nay, nhiều tác phẩm thực sự có giá trị chưa được đến tay người đọc, người nghiên cứu. Nhiều ấn phẩm (sách lẫn báo chí) dần dần bị tuyệt bản. Nếu không có kế hoạch bảo tồn, khai thác, truyền bá, để những di sản đó mai một đi thì sẽ là một tổn thất không thể bù đắp được.
Tại sao có tình trạng như vậy? Có nhiều nguyên nhân, nhưng đừng nói là vì thiếu tiền. Chỉ cần qua thông tin về cách chi tiêu, sử dụng tiền của nhà nước ta biết được từ báo chí, qua các dự án và vụ án... tôi không tin là ta đến nỗi thiếu tiền để làm những việc đó.
Một điều đáng nói, theo quan sát của tôi, thì nhiều cơ quan, tổ chức nhà nước có quyền, có điều kiện, có chức năng trong ngành văn hóa lại chưa làm được tốt, được đủ chức trách của mình ở lĩnh vực này, trong khi đó một số tổ chức phi chính phủ, tư nhân quý trọng các di sản văn hóa dân tộc đã có những nỗ lực và đóng góp đáng kể.
Cuộc sống tiện nghi sẽ phải trả giá bằng sự nghèo đi tài nguyên
- Một học giả Việt Kiều nêu nhận định thế này: chúng ta quá mải mê với các dự án kinh tế khi mời những nhà đầu tư nước ngoài vào khai thác tài nguyên khoáng sản, hoặc các kế hoạch hay chính sách thương mại. Có thể về vật chất chúng ta đang gặt hái được những con số giá trị nào đó nhưng lại làm tài nguyên tinh thần nghèo đi khi bản sắc có nguy cơ bị đồng hóa, con người lệ thuộc vào tiện nghi và rời xa truyền thống hay văn hóa cộng đồng. Ông nghĩ sao về điều đó?
Theo tôi, nhận định đó không phải là không có cơ sở. Hình như Việt Nam chưa có được một nhạc trưởng đủ sức điều hòa chiến lược phát triển toàn diện, hài hòa, và vì vậy nên xã hội nằm ở tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm, không bền vững. Bản năng tự nhiên (tự phát) của con người (số đông) là chạy theo tiện nghi, dễ dãi, ngại khó.
Làm kinh tế, đổi mới trong kinh tế dễ dàng có kết quả, thu lợi bằng tiện nghi vật chất, nhanh chóng đáp ứng bản năng, nhu cầu tự nhiên của con người. Dù ý thức được điều đó, người ta cũng không dễ chống lại. Bản thân tôi phản đối sự lệ thuộc vào tiện nghi, nhưng tôi cũng không thể đứng ngoài vòng quay đó. Tôi không thể không đi xe máy, không dùng điện thoại, vi tính...
Nhưng có một điều cần ý thức rõ, là sự giàu lên bằng tiện nghi vật chất thường phải trả giá bằng sự nghèo đi, cạn kiệt nguồn tài nguyên tự nhiên! Nhìn ra xung quanh, tôi thấy ta đang mang quá nhiều tài nguyên tự nhiên đi đổi lấy những tiện nghi vật chất hào nhoáng, xa hoa nhiều khi thực chất là rác rưởi, độc hại cho tinh thần, bản sắc dân tộc, bản sắc người.
Chạy theo sự phát triển về kinh tế (tiện nghi) nếu không được kiểm soát sẽ tạo ra sự rối loạn, xuống cấp về văn hóa, lối sống, bản sắc dân tộc. Ví dụ nhìn rõ nhất ở khu vực nông thôn bị đô thị hóa cấp tập. Bản chất nông thôn chạy theo tiện nghi, lối sống đô thị hóa sẽ phản bội ngay bản sắc của mình, coi thường, vứt bỏ tài nguyên tinh thần mình đang có để trở thành một dạng lai căng lưu manh hàm ẩn đủ thứ bi kịch và tệ nạn.
Cho nên phát triển kinh tế bền vững phải hài hòa với xây dựng văn hóa. Nhưng xây dựng văn hóa khó hơn nhiều. Một trong những điều kiện để xây dựng thành công văn hóa là phải biết khai thác, phát huy nguồn tài nguyên tinh thần của dân tộc, của cả nhân loại. Tôi nói lại, là chúng ta đang rất cần một trọng tài, một nhạc trưởng, để phân xử, để chỉ huy sự phát triển hài hòa giữa kinh tế vật chất và bản sắc văn hóa tinh thần.
- Ông cũng nói, tài nguyên thiên nhiên dù giàu có mấy đào mãi rồi sẽ đến lúc cạn kiệt, nhưng tài nguyên tinh thần càng khai thác càng làm đất nước lớn mạnh thêm?
Đúng vậy, phải biết dè xẻn tài nguyên (tự nhiên) mình đang có, nghe nói có quốc gia còn mua tài nguyên nước khác về chôn vào lòng đất để dành. Còn tài nguyên tinh thần càng khai thác thì càng giàu có thêm, và không phải để dành, mà còn nên hào phóng quảng bá ra thiên hạ - càng nhiều càng giàu hơn. Lại nữa, tôi tin rằng càng biết khai thác, phát triển tài nguyên tinh thần thì càng biết gìn giữ, bảo vệ các nguồn tài nguyên tự nhiên cho phát triển bền vững, hợp lý.
Có một điều cần lưu ý, là nếu tài nguyên thiên nhiên không khai thác thì nó vẫn còn, giữ nguyên giá trị; ngược lại, tài nguyên tinh thần mà không khai thác, quảng bá thì không có giá trị, thậm chí có nguy cơ bị mất. Nhưng muốn khai thác, quảng bá tài nguyên tinh thần thì cần phải có đầu tư. Hiện nay sự đầu tư của nhà nước ta cho các hoạt động khai thác, phát triển tài nguyên tinh thần vẫn chưa được quan tâm đúng và đủ. Có thể tìm ngay được những con số so sánh giữa ta và các nước khác để thấy rõ chuyện này.
Đừng mải mê làm kinh tế quá
- Vậy Trung tâm Đông Tây của ông đã khai thác tài nguyên tinh thần như thế nào?
Cụm từ "khai thác tài nguyên tinh thần" quá to tát với chúng tôi; tuy nhiên tôi cũng tự tin mà nói rằng hơn mười năm qua, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây đã làm được một số việc đáng ghi nhận theo định hướng này.
Trước hết là việc xuất bản, mà nhiều bạn bè của chúng tôi nói rằng Đông Tây là nơi chuyên làm loại sách... không ai mua! Tất nhiên đó là nói vui. Vẫn có người mua chứ, nhưng không nhiều. Có những bộ sách biết trước là khó bán, chúng tôi vẫn cứ làm, mà làm cẩn thận kĩ lưỡng, vì đó là những giá trị tinh thần của dân tộc. Chẳng hạn như Phan Bội Châu toàn tập, 10 năm trước chúng tôi đã in 10 tập, kỳ cạch bán lẻ từng bộ, thậm chí từng tập, mà vẫn chưa hết, nay đang chuẩn bị in tiếp thêm 2 tập Bổ di và một tập Thư mục cho trọn vẹn.
Thuộc loại này còn có thể kể Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Thủy kinh chú sớ, Thiên Nam ngữ lục, các tuyển tập tác phẩm của Vũ Tông Phan, Nguyễn Tư Giản, bộ sưu tập Sông Hương - tuần báo, Phan Khôi - tác phẩm đăng báo (nhiều tập), Hải Dương phong vật chí, Việt sử địa dư, Việt Sử toản yếu, Đồng Khánh, Khải Định chính yếu, Viêm Giao trưng cổ kí..; bên cạnh đó là những ấn phẩm có vẻ dễ bán hơn, như An Nam chí lược, Hồi kí Thanh Nghị, Phan Đình Phùng trong dòng lịch sử, Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Một cõi Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng trong cõi người ta, Đường Thiền sen nở, v.v... đến nay phải đến hàng mấy trăm đầu sách như vậy, đều là những tài sản tinh thần đáng lưu giữ, quảng bá cho các thế hệ nối tiếp.
Trung tâm Đông Tây cũng chú ý tổ chức xuất bản các tác giả và tác phẩm theo chúng tôi là có giá trị nhưng trước đây có thời bị đánh giá chưa thỏa đáng hay nằm ở "góc khuất" của dư luận, như Phạm Quỳnh, Hoàng Cao Khải, Phan Khôi, Trương Tửu... Trước hết, chúng tôi xác định phải làm đầy đủ công tác tư liệu, bảo tồn tài nguyên di sản, rồi từ đó mới có cơ sở để xã hội khai thác, phát huy các giá trị tinh thần.
Trung tâm Đông Tây còn mở một thư viện khoảng 10.000 đơn vị sách báo, nhiều ấn phẩm thuộc dạng quý hiếm, mở rộng cửa cho bạn đọc - đó cũng là một cách thiết thực chuyển tải các giá trị văn hoá quá khứ đến hiện tại, quảng bá tinh hoa văn hóa nhân loại vào Việt Nam. Ở đây chúng tôi cũng thường xuyên tổ chức các buổi giới thiệu tác phẩm, các cuộc giao lưu hay trao đổi bàn tròn, đó chính là một hình thức khai thác, phát huy, phát triển tài nguyên tinh thần mà qua nhiều năm tiến hành, được nhiều người đánh giá là rất thiết thực, bổ ích.
Chúng tôi nhận được rất nhiều ủng hộ về mặt tinh thần của bạn bè là các nhà nghiên cứu, các nhà văn, nhà thơ, dịch giả, các nhà báo và đông đảo bạn đọc yêu văn chương. Chúng tôi cũng nhận được tài trợ của một số tổ chức văn hóa dưới dạng dự án xuất bản. Tuy nhiên chúng tôi rất cần, rất mong muốn, có sự ủng hộ từ phía các cơ quan, tổ chức nhà nước - về mặt tinh thần, pháp lí, và về cả vật chất. Giá như nhà nước đặt hàng cho chúng tôi thông qua những dự án khai thác tài nguyên tinh thần cho bạn đọc trong và ngoài nước, hay mua cho chúng tôi những ấn phẩm tốt mà chúng tôi cố gắng làm ra... Nhưng có vẻ như mấy "ông nhà nước" này lại đang mải làm kinh tế quá!
- Thế giới biết đến Trung Quốc với một nền văn hóa lịch sử phong phú không những được khai thác rất triệt để mà còn tạo ra sức ảnh hưởng lớn đến các nền văn hóa khác; người ta cũng biết đến những vũ điệu cuồng nhiệt của Mỹ Latin; văn học Nga hay người đẹp của Venezuela… chúng ta có học hỏi được điều gì từ họ không? Chúng ta đã làm được những gì?
Bài học chỉ dễ ở lời nói. Chúng ta đã biết điều đó, đã nói đến điều đó, thậm chí đã chủ trương làm và đã (thử) làm điều đó. Chúng ta không phải không có tài nguyên tinh thần, cũng không phải không có người mong muốn và có khả năng khai thác, quảng bá nhưng trước hết, sự đầu tư quá ít. Hoặc, nói cho công bằng hơn, cũng có đầu tư, nhưng sự đầu tư và cách sử dụng đầu tư còn nhiều điều phải bàn.
Tôi lấy thí dụ, chỉ trong lĩnh vực xuất bản, văn chương thôi, cái gọi là Giải sách hay sách đẹp đã được trao năm năm nay, tiêu khá nhiều tiền của nhà nước mà không gây được chút uy tín xã hội và nghề nghiệp nào. Tiêu chí xét và trao giải hết sức lộn nhèo: giải sách mà lại không xét sách văn học; không xét sách văn học mà lại trao cho tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, Tô Hoài, Đặng Thùy Trâm! Và thật sự tôi không hiểu làm sao dám “phán” (rằng hay hay không) và “trao giải” cho các bộ sử của cha ông như Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ? Cách xét và trao giải lại hết sức tùy tiện. Theo thông tin từ báo chí, có cuốn sách “nội dung thông tin thì đã lạc hậu ngay từ lúc mới xuất bản” cũng được trao giải sách hay; lại có cuốn đã được công bố đoạt giải thì đến phút cuối lại bị rút với lý do “không được các cơ quan chủ quản ủng hộ”! Ta chỉ cần nghe ông Chủ tịch Hội đồng xét Giải thưởng sách Việt Nam “khẳng định” "Thực ra, giải thưởng sách Việt Nam cũng không hoàn toàn rơi vào tình trạng ảm đạm" (vnexpress, 8/10/2008) thì đã biết nó như thế nào rồi!
Hoặc như với “Hội nghị Quốc tế quảng bá văn học Việt Nam” vừa diễn ra đầu năm nay, một sự kiện trong mơ của giới văn chương, được tổ chức cũng xuất phát từ việc muốn đưa nguồn tài nguyên tinh thần của Việt Nam ra thế giới. Về ý thức thì điều này rất đúng, nhưng làm chưa ổn - quá nhiều những hoạt động hình thức, nào tiệc tùng, thăm thú, diễn trò… vô cùng lãng phí. Nói là “rải thảm đỏ” mời quốc tế đến nhà để “giới thiệu’, “quảng bá” văn chương Việt, nhưng khách đến rồi, ngồi vào bàn rồi thì té ra một cái bàn không: vì chủ đã chuẩn bị được cái gì để giới thiệu đâu! Có vẻ như đây là một vụ quảng bá du lịch thì đúng hơn (có người nói “vui”: phải trao cho Chủ tịch Hội Nhà văn Huân chương Vì sự nghiệp Du lịch!), chứ chưa đáp ứng mục tiêu “quảng bá văn học” của sự kiện.
Đó chắc chắn chưa phải là cách khai thác, phát triển, quảng bá tài nguyên tinh thần hợp lí.
Xin cảm ơn ông!
Thứ bảy ngày 20/2/2010
TÌNH CHỢ TẠM
Ra giêng ngày rộng tháng dài
Nắng hè sắp đến, nóng oi lại về
Quầy tạm, giống cảnh chợ quê
Đã thấp lại nhỏ, bức về hạ ơi
Canh Dần, mùa hè cuối rồi
Cám ơn chợ tạm, chúng tôi lại nhà
Vậy mà gần bốn năm qua
Chúng tớ nhờ cậy, tình ta đong đầy
Mình về chợ Nghệ mới xây
Đất Nguyễn Thái Học, ơn này mãi ghi...
tg Vũ Tản Hồng
*Viết hồi 14:43 PM ngày 7/1/CD tức 20/2/2010 tại 11 PĐC cảm xúc nhân nghe buổi phóng sự NHƯ CHƯA HỀ CÓ CUỘC CHIA LY của VTV1 phát lại lúc 14:00 PM ngày hôm nay thứ bảy; tg Vũ Tản Hồng
Hôm nay Chúa nhật 21/2/2010 ngày mùng tám tết đầu tiên của năm Canh Dần cũng là ngày nghỉ tết cuối để ngày mai bước vào ngày làm việc thứa hai( sau ngày 6/1/CD), 8:00 AM mình chỉnh lại mấy bài văn vần làm hôm qua, lấy ra mấy bài của Trần Nhương . com cho bên 51 NTH chuẩn bị 8/3/2010, Tháp vào cụ Ba, trưa về dọn hàng, phân công mình về với cụ Tư Toán vì cậu Thạch Thất quê mẹ vợ ăn cỗ, chắc cùng Thắng bằng xe máy con gái sắm cho năm ngoái, 11:00 Tháp mang cháo về cho bà và hai đứa về 05 Hậu ninh nấu cơm, hôm nay mở chai vang THĂNG LONG uống để ngủ cho yên, 13:40 dậy và vào bầm thay màn cho người ăn bổ sung chuối rồi đi nằm vì chiều nay trời ỉu như muốn mưa, rét lại.
Trưa mang cơm về gặp Minh KS và ai đó ngồi sau vào ngõ mình chơi...với ai đó mình cám ơn...
Hải vẫn ở Hà Nam thì phải, vẫn thấy NIC sáng mấy hôm nay cùng vài bạn...Tuân CH, Bộp, Thảo du lịch...
Chủ tịch nước khiển trâu cày
Cập nhật lúc : 9:00 AM, 21/02/2010
Trong bộ quần áo nâu, giày vải, sáng mùng 7 tháng Giêng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bước xuống cánh đồng bên chân núi Đọi ở xã Đọi Tam (Duy Tiên, Hà Nam), khiển trâu cày trong sự chứng kiến của hàng nghìn người dân. Đây là một nghi thức của Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn.
Cũng tại đây, hơn 1.000 năm trước, vua Lê Đại Hành đặt những đường cày đầu tiên cho một năm mới, với ý nghĩa nhắc nhở người dân coi trọng nghề nông, chí thú làm ăn, vì đó chính là cái gốc của mọi sự ấm no.
Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được phục dựng thử nghiệm đầu năm 2009, tổ chức chính thức từ 18-20/2/2010. Mùng 7 tháng Giêng là ngày trọng tâm của lễ hội, ngày tổ chức lễ tịch điền (cày ruộng).
Cần coi trọng nông nghiệp
Tại buổi lễ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định: “Mặc dù chúng ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng nông nghiệp vẫn cần được coi trọng, bởi 60% nhân dân vẫn gắn bó với nông thôn, vẫn làm nông nghiệp. Năm 2009, khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới tác động đến mọi quốc gia, mọi gia đình. Nhưng ở Việt Nam, nhờ nền nông nghiệp vững chắc và phát triển cho nên đời sống nhân dân vẫn ổn định”.
Sau lễ khai mạc, lễ dâng hương, nghi thức nhập thế vua Lê cày sá lễ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết được mời cày những sá đầu tiên.
Trang phục lúc này của Chủ tịch nước là bộ quần áo nâu, giày ba-ta cùng màu. Trâu do ông điều khiển là trâu cày 100%, không tô vẽ hay phủ vải đỏ. Cày và ách cũng không tô sơn.
Chú tịch nước Nguyễn Minh Triết khiển trâu cày ruộng sáng mùng 7 tháng Giêng.
Trang phục của Chủ tịch nước tạo vẻ giản dị, mộc mạc, gần gũi với người dân. Trước đó, việc chọn trang phục cho người cày tịch điền là vấn đề làm “đau đầu” Ban tổ chức và các tác giả kịch bản, đến hôm tổng duyệt 26 tháng Chạp vẫn chưa ngã ngũ.
Bà Lưu Thị Hà, xấp xỉ 70 tuổi, đi bộ 4 km từ thôn Yên Nội, xã Tiên Ngoại, huyện Duy Tiên về xem lễ tịch điền, nhận xét: “Những đường cày của lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất có ý nghĩa”. Bà bày tỏ mong muốn năm nay mùa màng bội thu, nhân dân yên vui, no đủ.
Tiếp theo sá cày của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết là sá cày của các ông: Cao Đức Phát (Bộ trưởng Bộ NN&PTNT), Trần Chiến Thắng (Thứ trưởng Bộ VHTT&DL), Đinh Văn Cương (Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam), Trần Xuân Lộc (Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam). Sau đó là lượt cày của lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh Hà Nam và huyện Duy Tiên.
Cụ Đinh Trọng Tế, 82 tuổi, người thôn Đọi Nhất, nhập vai vuya Lê cày tịch điền.
Họ cũng mặc bộ quần áo màu nâu, đi chân đất, cày với những con trâu được trao giải từ hội thi vẽ, trang trí trâu. Những thôn nữ đi theo rắc hạt giống. Tiếp đó là sá cày của các bô lão và thanh niên trong các làng thuộc xã Đọi Tam. Những đường cày lật tơi lớp đất xốp mềm, vạch thành các đường nâu sẫm, lấm tấm hạt vàng lúa giống.
Theo ông Trần Xuân Lộc, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam, những đường cày đầu xuân của vua Lê và các vị vua từ xưa đã để lại một di sản văn hoá quý báu mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Rộn ràng trống hội Đọi Tam
Sáng sớm mùng 7 Tết, dưới chân núi Đọi đã có hàng nghìn người từ những vùng xung quanh đổ về tham dự Lễ hội Tịch điền. Gần vào giờ khai hội, người dự lễ đứng chật khoảng ruộng làm sân đại lễ, háo hức đón chờ.
Ngoài nghi thức cày tịch điền của các vị lãnh đạo, lễ hội còn nhiều hoạt động khác như rước linh vị vua Lê từ trên chùa Đọi xuống, rước Tổ nghề và Đức Thánh cả, cúng Thần nông, thi vẽ và trang trí trâu, rước nước từ giếng làng lên chùa Đọi, đấu vật, đánh đu, hát dân ca…
Những chú trâu được trang trí sặc sỡ tham gia lễ hội.
Một trong những nội dung đáng chú ý là dàn trống hội của hơn 50 phụ nữ làng nghề trống Đọi Tam trên những chiếc xe cổ động mang biểu tượng tứ linh. Những người phụ nữ này được coi là linh hồn của làng nghề vì không chỉ biết làm nghề, truyền nghề, mà còn khéo léo trình diễn nghệ thuật trống cổ truyền của cha ông.
Kịch bản của Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được Viện Văn hoá nghệ thuật phối hợp UBND tỉnh và Sở VH-TT&DL Hà Nam xây dựng.
PGS. TS Lương Hồng Quang, Phó viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật (đơn vị đồng tổ chức lễ hội)
“Trong lễ cày tịch điền, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và các bộ trưởng, lãnh đạo địa phương mặc bộ quần áo nâu để thực hiện nghi thức cày. Chúng tôi quyết định lựa chọn bộ trang phục này dựa trên thẩm mỹ truyền thống của người Việt Nam. Màu nâu gắn với đất và cũng là hình ảnh tượng trưng cho người nông dân cả ba miền Bắc - Trung - Nam.
Mẫu thiết kế mà Chủ tịch nước và các vị lãnh đạo mặc cũng là hình ảnh bộ quần áo truyền thống của người Việt Nam, tái hiện hình ảnh giản dị của người nông dân đi cày.
Trước đó, đã có một bô lão mặc bộ hoàng bào trong lễ diễn xướng rồi, nên các vị lãnh đạo không cần thiết phải mặc hoàng bào nữa.
Việc Chủ tịch nước đi giày trong lễ cày tịch điền là có liên quan đến vấn đề về an ninh, sức khỏe. Chúng tôi đã chọn một đôi giày vải mềm, nhẹ và đồng màu nâu. Còn từ cấp bậc Bộ trưởng trở xuống đều đi chân đất trong khi cày. Điều này đều được mọi người đón nhận và không có ý kiến gì”. Lê Thoa (ghi)
Chu Bình
Chủ Nhật, 21/02/2010, 15:08
Chuyện Hồ Gươm
>> Ý tưởng quy hoạch Hồ Gươm sẽ bị xếp vào ngăn kéo?
1. Người Việt mình, nhất là những ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, dù sống ở đâu, trong nước hay ngoài nước, nhưng mỗi khi nhớ về Hà Nội là lại nhắc đến Hồ Gươm với nỗi niềm tha thiết…
Hồ Gươm lọt thỏm giữa nhiều tòa nhà trông như một cái ao. Ảnh : Hồng Vĩnh
Do nằm ở vị trí đắc địa của Thủ đô, đất ở đây được tính bằng nhiều cây vàng một mét vuông, nên vì lợi ích kinh tế, lại được chính quyền khuyến khích theo chủ trương kêu gọi đầu tư trong giai đoạn đầu bước vào kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các chủ đầu tư trong và ngoài nước đã xây nhiều công trình trụ sở văn phòng, ngân hàng có khối tích lớn thậm chí cao lừng lững mười mấy tầng, mặt ngoài ốp kính màu trông như bức tường thành bao bọc lấy Hồ Gươm, biến hồ như một cái ao!
Đã có nhiều chủ trương, phương án cải tạo kiến trúc khu vực Hồ Gươm để bảo vệ giữ gìn cảnh quan kiến trúc văn hóa di sản hồ, nhưng xem ra kết quả vẫn còn xa vời lắm.
Hồ Gươm có tự bao giờ, không thấy tài liệu nào nói chính xác. Chỉ biết, cách đây chừng 6 thế kỷ, vào năm 1490, theo bản đồ thời Hồng Đức có tên là “Trung Đô đồ” thì chung quanh kinh thành khi ấy vẫn mênh mang nước. Hồ Gươm là một phân lưu của sông Hồng có hình loe thắt không đều nhau chạy dài từ phố Hàng Đào, qua phố Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, tới Hàng Chuối rồi lại thông ra sông Hồng. Nơi loe nhất gọi là hồ, rộng gấp nhiều lần sông Tô, nước quanh năm xanh biếc. Hồ xưa có nhiều tên gọi như: Hồ Lục Thủy, hồ Tả Vọng, Hữu Vọng, hồ Thủy Quân.
Nhưng cái tên Hồ Gươm, còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ 15 (khoảng năm 1428), gắn với truyền thuyết Vua Lê Thái Tổ trả lại gươm báu cho Rùa thần, sau khi đánh đuổi giặc nhà Minh ra khỏi bờ cõi nước ta, được nhắc đến nhiều nhất, trở nên gần gũi, thân thương trong lòng người Hà Nội. Trải qua nhiều biến đổi của thời gian, sự bồi đắp vơi đầy của lịch sử, cái nơi loe ra, rộng nhất có màu xanh lục huyền ảo với truyền thuyết hào hùng và lãng mạn ấy, giờ đã trở thành di sản kiến trúc văn hóa, viên ngọc quý long lanh giữa lòng Hà Nội ngàn năm tuổi.
Hà Nội vốn là vùng đất của cây xanh, mặt nước. Qua hơn 130 năm đô thị hóa, nếu tính từ năm 1875, khi người Pháp bắt đầu thực hiện chính sách cai trị và khai thác thuộc địa ở nước ta cho đến sau khi miền Bắc được giải phóng 1954, rồi tiếp tục đến năm 1985 và đặc biệt từ những năm đổi mới đến nay, rất nhiều sông hồ Hà Nội bị biến mất, bởi công cuộc xây dựng, cải tạo và mở rộng Thủ đô.
Nhưng may thay, trong cái cuộc xoay vần thế sự và xây dựng ào ạt bằng mọi giá của con người thì Hồ Gươm, cái hồ nhỏ bé, xinh xắn và huyền thoại, rộng hơn 11 ha, nằm ở trung tâm Hà Nội, giáp khu phố cổ 36 phố phường với Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, Tháp Bút, Đài Nghiên… và cụ Rùa hàng trăm tuổi kia, hầu như không mấy bị ảnh hưởng.
Hồ vẫn quanh năm xanh mướt màu lục thủy. Chung quanh hồ vẫn thướt tha hàng liễu rủ. Những cây lộc vừng cổ thụ vẫn lặng lẽ thả từng chùm dây hoa đỏ như muôn ngàn chiếc đèn lồng nhỏ tí xíu, lung linh trên mặt hồ vào cuối xuân… đủ làm ta ngẩn ngơ, rung động. Hơn 10 năm trở lại đây, Hồ Gươm luôn được chính quyền thành phố quan tâm, chăm sóc, từ trồng thêm cây, trồng hoa, thảm cỏ, lát đá, gạch màu, lắp đèn chiếu sáng trên con đường dạo quanh hồ đến chỉnh trang các công trình kiến trúc làm cho Hồ Gươm càng thêm đẹp, thêm hấp dẫn.
2. Hồ Gươm không lớn, không mênh mông như Hồ Tây rộng tới hơn 500 ha, cũng là một danh thắng của Hà Nội. Chỉ nhỏ bé, xinh xắn như một lẵng hoa thôi, nhưng Hồ Gươm lại có vị trí thật đặc biệt, thật thiêng liêng mà không một nơi nào trong thành phố này có được. Nằm ở vị trí trung tâm, hồ là nơi kết nối giữa khu phố cổ với khu phố Tây theo phong cách kiến trúc quy hoạch châu Âu mà người Pháp thực hiện cách đây hơn thế kỷ.
Hồ như lòng bàn tay và các ngón tay là những con đường thân quen của Hà Nội, từ các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can, Lò Sũ… của khu phố cổ đến phố cũ Bảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền, Hàng Khay, Bà Triệu… Tất cả như những “dòng sông phố” chảy về Hồ Hoàn Kiếm.
Ngày cũng như đêm, nhịp sống ở quanh khu vực hồ luôn sôi động và náo nhiệt. Nữ văn sỹ người Anh C. Hawland, khi đến Hà Nội đã thật tinh tế nhận xét, Hồ Gươm như một cái đèn kéo quân khổng lồ, kéo nhịp sống nơi đây quay mãi, quay mãi… theo dòng thời gian vô cùng tận.
Tôi còn nhớ, vào những năm cuối thập niên 50 và 60, dân cư Hà Nội còn chưa đông đúc như bây giờ. Giao thông trong thành phố chủ yếu bằng xe đạp. Xe máy ít lắm, chỉ nhà khá giả mới có. Ô tô con càng hiếm, chủ yếu là xe com măng ca, thi thoảng mới gặp chiếc xe Pôpêđa do Liên Xô sản xuất dành cho cán bộ cao cấp chạy quanh bờ hồ. Đi lại công cộng chỉ có tầu điện, chưa có xe buýt.
Bên bờ hồ, phía nhà Ủy ban Hành chính thành phố có đường tầu điện chạy từ chợ Mơ qua phố Bạch Mai, phố Huế, Hàng Bài lên bờ hồ đến chợ Đồng Xuân, tháp nước Hàng Đậu, Quán Thánh rồi Thụy Khuê đến Bưởi. Bến tầu điện Bờ Hồ ở chỗ nay là tòa nhà thương mại một thời có tên là “hàm cá mập”. Thời ấy, người Hà Nội không ai là không đi tầu điện, bởi cái sự thuận tiện của nó mà giá lại rẻ, chỉ mất 5 xu là có thể đi từ bờ hồ vào đến tận ga cuối mãi tít Hà Đông.
Những ngày nghỉ học, tôi và mấy đứa bạn cùng phố thường rủ nhau ra bờ hồ nhảy tầu lên chơi Bách Thảo, Thụy Khuê. Chao ôi! Cái tiếng tầu điện leng keng! leng keng… đều đặn từ sáng sớm tinh mơ cho đến giữa đêm khuya bất kể mưa nắng, thời gian… dẫu đã mấy chục năm rồi, vẫn cứ còn leng keng đâu đây trong ký ức của một thời thơ trẻ! Ngày xưa ấy, cụm từ “đi chơi Bờ Hồ” rất quen thuộc không chỉ với lũ trẻ con chúng tôi, mà trong nhà, khi nào khen con trẻ ngoan, chăm học, người lớn thường hay bảo: “Cho đi chơi ăn kem Bờ Hồ!”. Những ngày hè oi ả, nóng nực, được ra Bờ Hồ chạy nhảy, hóng những cơn gió mát lành từ hồ, rồi được ăn một que kem Thủy Tạ, Bốn Mùa thì khoái biết chừng nào!
Hàng trăm năm trôi qua, biết bao đời người, phận người đã đến và đi qua bờ Hồ Hoàn Kiếm. Cảnh vật, kiến trúc chung quanh hồ cũng đã nhiều thay đổi. Trước đây, kiến trúc khu vực này chủ yếu là nhà hai ba tầng, nằm khiêm nhường dưới những tán cây cổ thụ, kể cả trụ sở công quyền như Tòa Thị chính thành phố, rất hài hòa với cảnh quan Hồ Gươm với những kiến trúc nhỏ, giản dị như Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc… Sau này, nhất là hai chục năm trở lại đây, kiến trúc quanh hồ và khu vực hồ đã có nhiều biến đổi theo hướng tiêu cực.
Do nằm ở vị trí đắc địa của Thủ đô, đất ở đây được tính bằng nhiều cây vàng một mét vuông, nên vì lợi ích kinh tế, lại được chính quyền khuyến khích theo chủ trương kêu gọi đầu tư trong giai đoạn đầu bước vào kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, các chủ đầu tư trong và ngoài nước đã xây nhiều công trình trụ sở văn phòng, ngân hàng có khối tích lớn thậm chí cao lừng lững mười mấy tầng, mặt ngoài ốp kính màu trông như bức tường thành bao bọc lấy Hồ Gươm, biến hồ như một cái ao! Đã có nhiều chủ trương, phương án cải tạo kiến trúc khu vực Hồ Gươm để bảo vệ giữ gìn cảnh quan kiến trúc văn hóa di sản hồ, nhưng xem ra kết quả vẫn còn xa vời lắm.
Mới gần đây, hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố đã tổ chức một cuộc thi lớn với giá trị tiền thưởng lên tới hơn trăm ngàn đô la có tên “Ý tưởng quy hoạch và thiết kế đô thị khu vực Hồ Gươm và vùng phụ cận” thu hút sự tham gia của nhiều đơn vị tư vấn nổi tiếng trong và ngoài nước.
Cũng có giải, trao giải nhưng không có kết luận là tiếp tục để triển khai thực hiện hay không. Nhiều nhóm tác giả đã đưa ra phương án khá táo bạo, phá đi cả đoạn phố trên đường Đinh Tiên Hoàng, cải tạo Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, làm không gian ngầm dưới mặt đất để làm nơi để xe, trung tâm thương mại.v.v... Có phương án quyết liệt hơn là phá bỏ tòa nhà UBND TP hiện nay, kiến trúc thô kệch...
Dù cách này hay cách khác, thì cuộc thi cũng hướng đến mục đích rất tốt đẹp, là “xây dựng nơi đây thành trung tâm văn hóa, giao lưu cho người dân Hà Nội, tạo sự hài hòa giữa nhộn nhịp và sự thanh lịch” (Nikken Sekkei Civil Engineering LTD - Nhật Bản). Hay coi Hồ Gươm “như một viên ngọc quý đầy bụi bẩn, tạp chất, cần phải được làm sạch một cách kiên quyết” của nhóm tác giả 1+1>2 Group – Academia. Còn nói như KTS Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội KTS Việt Nam, thì: “Hồ Gươm và khu vực phụ cận là tài sản không của riêng ai. Vì vậy, đừng ai biến tài sản đó thành của riêng mà hãy góp sức làm đẹp thêm cho cộng đồng”. Tôi thấm thía lời khuyến cáo ấy của ông!
Cây lộc vừng bên Hồ Gươm thay áo đón Xuân Canh Dần. Ảnh : Công Khanh
3. Chuyện về Hồ Gươm thì nhiều lắm. Buồn vui, hỉ nộ ái ố đều có cả. Nhưng, nghĩ cho cùng thì cũng chỉ vì yêu quá mảnh đất thiêng, hồ thiêng của đất kinh kỳ ngàn năm tuổi mà nghĩ suy dông dài như thế! Những ngày cuối năm, bên Hồ Gươm, một lễ hội hoa vừa diễn ra. Tôi đã cùng vợ, người con gái dịu hiền của Hà Nội, hòa vào dòng người đông bất tận để mà thưởng thức, để mà cảm thụ một lễ hội hoa theo đúng nghĩa của nó - rất Hà Nội!
Vợ chồng tôi thực xúc động khi gặp lại hình dáng cái tầu điện cũ kỹ thủa nào, rồi cầu Long Biên, làng lúa làng hoa với thấp thoáng bóng cò trắng muốt… Chao ôi! nhìn những nụ cười hồn nhiên, tươi trẻ của các trai thanh gái lịch đất Hà thành trong lễ hội hoa, tôi như thấy mình trẻ lại, thanh thản hơn, trong sáng hơn.
Hà Nội của tôi, Hồ Gươm của tôi cứ bình dị và thân thương như thế.
KTS Phạm Thanh Tùng
Từ trưa nay, giá xăng tăng thêm 590 đồng/lít
(Dân trí) - Kể từ 12h hôm nay, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) chính thức điều chỉnh giá bán mặt hàng xăng, với mức tăng 590 đồng/lít. Còn từ 14h, Saigon Petro tăng giá bán xăng thêm 550 đồng/lít.
Quyết định về giá bán xăng dầu có hiệu lực thi hành kể từ 12h ngày 21/2/2010. (Ảnh minh họa)
Cụ thể, với mức điều chỉnh lần này, giá vùng 1 mặt hàng xăng như sau: Xăng không chì RON 95 là 17.490 đồng/lít và xăng không chì RON 92 là 16.990 đồng/lít. Các mặt hàng dầu diezel và ma zút vẫn giữ nguyên giá bán như những ngày vừa qua.
Quyết định về giá bán xăng dầu của Tổng giám đốc Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam ban hành có hiệu lực thi hành kể từ 12h ngày 21/2/2010 trên toàn hệ thống phân phối gồm các cửa hàng xăng dầu Petrolimex và các trung gian thương mại (đại lý và tổng đại lý Petrolimex).
Đại diện Petrolimex cho biết: Việc điều chỉnh giá lần này của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam được thực hiện theo Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về Kinh doanh xăng dầu, các văn bản hướng dẫn của liên bộ Tài Chính - Công Thương và bám sát diễn biến giá xăng dầu thành phẩm trên thị trường thế giới.
Bên cạnh việc điều chỉnh giá xăng lần này, Petrolimex áp dụng chương trình giá bán lẻ ưu đãi đợt 4 với các khách hàng mua xăng dầu thanh toán bằng thẻ Flexicard; với mức thấp hơn giá bán lẻ niêm yết là 200 đồng/lít tại cửa hàng xăng dầu vùng 1; 210 đồng/lít tại cửa hàng xăng dầu vùng 2.
Còn theo đại diện của Saigon Petro, kể từ 14h hôm nay, tức là chậm hơn Petrolimex 2 tiếng, công ty này cũng điều chỉnh tăng giá bán các mặt hàng xăng. Mức tăng giá lần này của Saigon Petro là 550 đồng/lít, thấp hơn Petrolimex 40 đồng/lít...
An Hạ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét