Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2010

HÃY GIỮ LẤY NỖI BUỒN

Chiều nay 07/2/2010 còn đúng một tuần nữa là sang năm CANH DẦN..TRỜI nắng to, 15:00 Huy HN về đưa lễ cùng một người bạn, chắc cháu vào Cậu rồi ra mộ bố, chiều nó quay về ăn cơm theo lời mình dặn...mình xếp mấy chuyện ngắn của TQ đưa lên mạng, lát nữa xem TRẦN NHƯƠNG có gì thêm thì bổ sung...Chiều bầm ngủ bù mấy hôm trước, trưa nay bà Quýt cho một hộp bánh, Xim cho một quả dưa Hấu, Tuấn _ Mai quà mấy gói kẹo...nghe đâu sang năm nhà 84 sửa lại để làm KIM HOÀN còn AH5N1 thì chuyển vào thêu ở lò...

Văn học nước ngoài
DÂY CHUYỀN SẢN XUẤT THẠC SỸ
Trương Bình (TQ) Vũ Phong Tạo dịch
Tác phẩm được người đọc Trung Quốc ưa thích:


Tại một cửa hàng bán băng hình, nhìn thấy một cái đĩa CD có tên là “Dây chuyền sản xuất Thạc sĩ”, tôi bèn hỏi chủ cửa hàng:
- Thạc sĩ đâu có phải là giầy da, làm sao mà có thể sản xuất trên dây chuyền sản xuất chứ?
Chủ cửa hàng nói:
- Đây là một trò chơi, hấp dẫn lắm, anh mua một đĩa đi!
Nằm mơ tôi cũng luôn mong muốn trở thành Thạc sĩ. Nhưng, đáng tiếc là không có bản lĩnh, trình độ ấy, trong thực tế cuộc sống không có khả năng trở thành Thạc sĩ. Vậy thì Thạc sĩ trong trò chơi điện tử làm cho tôi đã cơn nghiện Thạc sĩ cũng tốt chán. Nghĩ vậy, tôi bèn mua chiếc đĩa CD “Dây chuyền sản xuất Thạc sĩ”
Vừa về đến nhà, tôi đã vội vàng, cuống quýt lên chơi trò sản xuất Thạc sĩ.
Trò chơi bắt đầu, yêu cầu cung cấp nguyên liệu sản xuất, tôi bèn chẳng cần suy tính gì, bèn đưa “học sinh” vào, xem nó làm như thế nào để biến “học sinh” này biến thành Thạc sĩ. Bắt đầu ngỡ tưởng quá trình sản xuất Thạc sĩ rất lý thú. Ai ngờ, nó lại bắt buộc cậu học sinh này học qua tiểu học, trung học, đại học, nghiên cứu sinh, cuối cùng mới thành Thạc sĩ, chẳng lý thú một tý nào. Tôi gào to bị mắc lừa rồi, rồi vứt đĩa vào trong ngăn kéo, không thèm đụng đến nó nữa.
Mấy ngày sau, bà xã hỏi tôi:
- Cái đĩa CD ở trong ngăn kéo là anh mua phải không? Thật có ý nghĩa quá!
Tôi nói:
- Nó có ý nghĩa gì cơ? Ai mà chẳng biết Thạc sĩ cần phải học từ tiểu học đến nghiên cứu sinh ?
Bà xã tôi nói:
- Anh thử thay nguyên liệu một chút bèn có ý nghĩa ngay mà. Sáng nay, em vừa biến một thằng cha đần độn, dốt nát thành Thạc sĩ đấy!
Tôi nói:
- Thằng cha đần độn, dốt nát làm sao mà biến thành Thạc sĩ được chứ? Anh không tin!
Bà vợ tôi nói:
- Em lập tức chơi cho anh xem đây!
Vợ tôi ngồi xuống trước máy vi tính, mở trò chơi “Dây chuyền sản xuất Thạc sĩ” ra, đưa nguyên liệu “thằng đần” vào, làm rối tinh rối mù một lát, quả nhiên bèn biến thành Thạc sĩ. Bỗng tôi nổi hứng lên, bảo vợ đưa con chuột cho tôi chơi một lát.
Bà xã đưa con chuột cho tôi. Tôi lập tức đưa nguyên liệu “chó” vào. Trên màn hình nhảy ra ba chữ “có sáng kiến”, rồi hỏi: “Chó của nhà ai? Giám đốc, hay là quan chức? Chó đực, hay là chó cái?”
Tôi cho “chó cái của nhà người nghèo” vào, trên màn hình nhảy ra một dòng chữ: “Trò chơi không thể tiến hành được.”
Tôi sửa thành “chó cái của nhà giám đốc”, màn hình hiển thị: “Trò chơi tiếp tục tiến hành, dây chuyền sản xuất bắt đầu khởi động. Công đoạn thứ nhất: Tìm người thi thay, cần phải nộp một vạn năm ngàn đồng.” (1 nhân dân tệ tương đương 2.500 VNĐ)
Sau khi giao nộp một vạn năm ngàn đồng (đương nhiên là trò chơi, không phải là tiền thật), màn hình hiển thị: “Mã số học viên của quí cẩu là 0124, cần phải giao nộp tiền tài trợ phí, học phí, sách vở phí, ăn ở phí, đáp án luận văn phí, giấy chứng chỉ phí, trang phục phí, các loại tạp phí và bồi dưỡng học viên đặc biệt phí, tổng cộng các khoản là mười một vạn sáu ngàn nhân dân tệ”
Sau khi giao nộp khoản tiền này, trên màn hình bèn xuất hiện ảnh của trường đại học, bên cạnh còn có ảnh và tên của mấy con chó, để bạn chọn lựa.
Tôi nhấp chuột vào con chó bông có tên là Hoa Thuý. Ôi! Con chó bông sù ấy lập tức động đậy, giống như người mẫu dùng mõm giở sách nữa cơ. Con chó Hoa Thuý đáng yêu miệng ngậm tờ giấy chứng chỉ, giơ giơ cao lên. Tờ giấy chứng chỉ càng phóng càng to lên, cho đến khi phủ kín cả màn hình, có thể nhìn thấy hai năm rõ mười các mẫu tự “Thạc sĩ Quản lý kinh tế học”.
“Quá hoang đường!” Tôi và bà xã đang thán phục thốt lên, thì tờ giấy chứng chỉ bèn đột nhiên biến mất, tiếp theo bèn nhảy ra mấy chữ: “Trò chơi kết thúc.”
VŨ PHONG TẠO dịch
(Theo Bán nguyệt san “Truyện mini chọn lọc”, TQ, số 11-2004) Thứ bảy ngày 6/2/2010
THỐI NÁT VĂN HÓA QUAN TRƯỜNG LÀ THỐI NÁT TIỀM ẨN NHẤT Chu Bích Hoa Báo điện tử Hội Nhà văn Trung Quốc (www.chinawriter.com.cn), ngày 20-10-2009, truy nhập bài tạp đàm của nhà văn Chu Bích Hoa (sinh năm 1963, tại An Hương, tỉnh Hồ Nam. Hiện anh là Hội trưởng Hội Tản văn thành phố Thường Đức, sáng lập Song nguyệt san “Thời đại Tản văn”; Đã xuất bản 2 tập thơ, 1 tập tản văn, 2 bộ tiểu thuyết). Chu Bích Hoa là tác giả tiểu thuyết “Quyền lực - Chủ tịch Hội đồng nhân dân”, tâm sự về chủ đề bộ tiểu thuyết này của anh.
Chúng tôi giới thiệu toàn văn bài tạp đàm trên của nhà văn Chu Bích Hoa, để bạn đọc tham khảo.
***

Thối nát văn hoá quan trường là chủ đề đặt ra khi tôi sáng tác bộ tiểu thuyết “Quyền lực - Chủ tịch Hội đồng nhân dân” (Quyền lực – Nhân đại chủ nhiệm).
Trước đó, cách nói thịnh hình trong nước chỉ là “thối nát văn hoá”, chủ thể của thối nát là người làm văn hoá. Đại loại như: Mỗi khi bình chọn một giải thưởng, mỗi hoạt động bình chọn, thì máy điện thoại di động, thẻ ngân hàng của các uỷ viên Hội đồng bình chọn lại bận bịu túi bụi, bình chọn không dựa vào chất lượng nữa, cạnh tranh không dựa vào trình độ nữa, mà dựa vào tài lực mà tiến hành đấu đá. Những uỷ viên Hội đồng bình chọn đạo mạo hiên ngang đã trở thành nô lệ của đồng tiền. Những hội đồng giám định khác, như bình chọn đạo diễn ưu tú, hội thảo tác phẩm, công bố luận văn, v.v…, hàng loạt nhân sĩ trí thức đã vứt bỏ lương tri.
Mà thối nát văn hoá mà tôi bóc trần trong bộ tiểu thuyết này, chủ thể của nó là người trong quan trường. Ví dụ như Lưu Quốc Tài trong tác phẩm là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp thành phố, chức quan của ông ta không cao lắm. Nhưng, ông ta vì làm cho giá trị nhân sinh của mình được gia tăng, làm cho ảnh hưởng xã hội của mình kéo dài mãi mãi, không vì sau này thoái vị mà tiêu thanh nặc tích, ông ta đã khéo léo lợi dụng chiếc thang văn hoá này.
Cần nói rằng: Quan chức yêu văn hoá bản thân nó không phải là chuyện xấu, mà là đáng được kính trọng ngưỡng mộ, quan chức tuân thủ quy luật phát triển của văn hoá nếu như nắm chắc sự nghiệp văn hoá, nhất định sẽ thúc tiến sự phồn vinh của sự nghiệp văn hoá. Mà Lưu Quốc Tài trong tiểu thuyết trái lại vì quyền lợi của cá nhân mình, vì xây dựng danh tiếng của bản thân mình.
Song, văn hoá không phải là xây một ngôi nhà, không phải là chuyện một sớm một chiều, ông ta phải đi con đường tắt, dùng rắn làm bút sáng tạo ra cái gọi là “Sách rồng” (Long thư). Xoay quanh sự “thành danh” của ông ta, một đám nhân vật nhỏ kết chạ với ông ta thành một dây móc nối quan hệ, hình thành vòng tròn, cái “làng” thối nát đặc biệt độc đáo.
Trước đây không lâu, trong một cuộc hội chợ triển lãm sách, tôi đã nhìn thấy rất nhiều cuốn sách tranh khổ lớn vẽ về những vị quan cao mặt to tai lớn, khuôn khổ của những cuốn sách tranh này có thể so sánh ngang hàng với “Tứ khố Toàn thư”, bìa sách cực kỳ hào hoa, thậm chí có thể nói là hạng nhất thế giới. Những kiệt tác cỡ lớn của những quý nhân đạt quan như vậy, đại đa số đều là những người hoặc đơn vị X nịnh bợ tô vẽ nên.
Tục ngữ nói: Thiên hạ không có cơm trưa miễn phí, những người hoặc đơn vị này bỏ ra, nhất định sẽ thu được sự đáp đền của những vị quan cao X. Sự báo đáp của những vị quan cao chức trọng, nhất định là lợi dụng quyền lực trong tay. Đây chính là hiện tượng thối nát kiểu mới được che đậy bằng chiếc áo khoác văn hoá, nhất thời không dễ dàng bị người thường phát giác, cũng chưa dẫn đến sự quan tâm chú ý của ngành kiểm tra kỷ luật và ngành kiểm sát.
Sứ mệnh xã hội của nhà văn là những gì? Nhà văn chân chính phải có ý thức lo lắng trước tai hoạ của đất nước, “là xúc giác của một dân tộc”, phải đứng trên một độ cao nhất định suy ngẫm đi trước thời đại. Trong khi công tác chống thối nát tiến hành một cách cực kỳ gian nan, nhà văn có trách nhiệm sử dụng thủ pháp văn học, phơi bầy dưới ánh năng mặt trời những tội ác tiềm ẩn tệ hại nhất, để lôi kéo sự coi trọng của mọi người. VŨ PHONG TẠO dịch(Theo www.chinawriter.com.cn, 20-10-2009)

KHÓC LỖ TẤN Tàng Khắc Gia (TQ) Trang Hạ dịch
Có người đang sống mà đã chết rồi;
Có người chết rồi mà vẫn sống;
Có người cưỡi lên đầu nhân dân: “Ôi, ta vĩ đại!”
Có người quỳ thân làm trâu ngựa cho dân
Có người khắc tên vào đá mong “bất hủ”;
Có người nguyện làm cỏ dại, chờ đất thấp lửa thiêu.
Có người sống thì người khác không sống nổi;
Có người sống để những người khác sống tốt hơn.
Này người cưỡi lên đầu nhân dân, nhân dân xô ngươi ngã;
Hỡi người làm trâu ngựa cho dân, nhân dân vĩnh viễn nhớ người!
Này người khắc tên bia đá, tên người ruỗng nhanh hơn xác người;
Chỉ gió xuân thổi qua nơi đất, cỏ dại lên xanh một chân trời. Trang Hạ dịch
Nguồn: http://trangha.wordpress.com/
Thứ bảy ngày 17/10/2009 LÀM NGƯỜI LÁI XE GIỎI Truyện ngắn: MẠNH TƯỜNG NINH (Trung Quốc) LND: Nữ sinh Mạnh Tường Ninh, sinh ngày 27 tháng 12 năm 1993, học sinh trường Trung học cơ sở số 28 thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
Năm thứ hai trường trung học cơ sở, em đã hai lần được trao Giải nhì, Giải ba Cúp Viện Văn học Hà Bắc, được nữ nhà văn Thiết Ngưng, Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc khuyến khích và giúp đỡ. Mạnh Tường Ninh đã công bố gần 60 bài văn và thơ trên các báo, tạp chí “Văn học Thái Hành”, “Nhà văn trẻ Trung Quốc”, “Văn hoá đọc đại chúng”, “Văn học Bắc Kinh”, “Báo Văn học Hà Bắc”, v.v…
Đầu năm 2009, vừa 16 tuổi Mạnh Tường Ninh đã được kết nạp vào Hội Nhà văn tỉnh Hà Bắc, là Hội viên Nhà văn trẻ nhất cấp tỉnh, thành phố ở Trung Quốc.
Tác phẩm “Làm người lái xe giỏi” của Mạnh Tường Ninh đã đăng trên trang 13 Báo “Văn hoá đọc đại chúng” (Đại chúng duyệt đọc báo), số ra ngày 29 tháng 2 năm 2008, khi em 15 tuổi, là học sinh lớp 7 trường trung học cơ sở.

***
Sáng hôm nay, trong giờ đọc báo tại lớp, thày giáo đọc một bài văn bàn về mục tiêu phấn đấu của con người, sau đó hỏi chúng em: “Có ai cho rằng sau hai năm mình sẽ có thể học ở một trường trung học phổ thông trọng điểm?”
Nghe câu hỏi ấy, em thấy hơi khó nghĩ, tại vì sao lại nhất định phải đi học ở trường trung học phổ thông trọng điểm? Học ở những trường ấy, áp lực rất lớn, khiến người ta không thở được, hàng ngày ngoài bài tập ngập đầu như nước lũ, lại còn phải tự học ban đêm, học đến ốm người vẫn không theo kịp, mà sức khoẻ là gốc rễ của cuộc đời. Lát sau, lần lượt có hơn mười bạn giơ tay, thầy giáo nhìn khắp một lượt, rồi lại nhìn em, ánh mắt ấy của thày như đang muốn nói: “Vì sao mà em lại không giơ tay ? Lần này em có thể thi đỗ đầu của lớp mà!”
Thày giáo hình như hơi thất vọng, song em tin tưởng vững chắc vào quan điểm của mình, không giơ tay.
Thày giáo cổ vũ khích lệ mọi người: “Chỉ cần có mục tiêu này, và nỗ lực phấn đấu theo mục tiêu ấy, các em nhất định có thể học ở một trường trung học phổ thông trọng điểm!”
Em nhăn nhó cười.
- Vì sao cứ nhất định phải vào học ở trường trung học phổ thông trung học trọng điểm? – Em hỏi một bạn giơ tay.
- Vì sẽ được học ở trường đại học trọng điểm.
- Vì sao nhất định phải vào học trường đại học trọng điểm?
- Vì để có công tác tốt.
- Nhưng cũng có người tốt nghiệp trường Đại học Thanh Hoa (một trong những trường đại học danh tiếng ở Trung Quốc-ND) ra trường cũng phải đi bán kẹo rong đấy, cũng có người tuy có văn bằng cao mà vẫn tìm không ra việc làm.
- Mình có biết đâu, nhưng bố mẹ mình bảo vậy.
Không có một mục tiêu chính xác rõ ràng, học tập một cách mù quáng, tuy có lập thành tích đặc biệt ưu tú, cũng rất khó đứng vững trong xã hội.
Giữa những người làm cha mẹ có quan điểm khác nhau, cho nên môi trường trưởng thành của com em họ cũng khác nhau, điều này sẽ tạo nên những tính cách khác nhau, số phận khác nhau. Nếu như các vị gia trưởng chạy theo phong trào, cho rằng thi đỗ đại học chính là lối ra duy nhất của con cái, thì con cái sau này sẽ không có thành tựu quá lớn, thậm chí đến kinh phí đi học đại học cũng không chạy nổi, như vậy có khác nào gầu thủng không kín được nước. Trái lại, cha mẹ nếu như có tư duy đi trước thời đại, cho rằng con em phát triển hoàn toàn dựa vào hứng thú, chúng thích gì thì làm nấy, đương nhiên tiền đề là tạo ra cơ sở để học tốt, thì con em sau khi trưởng thành nhất định sẽ tạo lập ra mảnh đất hoạt động của mình.
Cha con của bạn Trịnh Uyên Khiết chính là điển hình như vậy, tuy nói Trịnh Uyên Khiết đến 26 chữ cái chưa thuộc hết, song cậu lại có thể viết ra nhiều chuyện đồng thoại sinh động thú vị, độc giả ưa thích đến thế, bởi vì cậu có một sở trường, chỉ cần có một môn kỹ thuật, thì có thể cắm rễ nẩy mầm trong xã hội này.
Bố mình thường nói: “Phải là một người lái xe giỏi, vừa phải phi thẳng lên phía trước, vừa phải sẵn sàng đối phó với những đoạn đường vòng vèo.”
Trong xã hội này, là một học sinh trung học, chúng mình chỉ có thể làm là phải thích ứng với nền giáo dục thi cử, nhưng không thể học một cách máy móc, không thể biến mình thành con mọt sách, như vậy thì có hại cho sức khoẻ, hơn nữa đại não của lứa tuổi thanh thiếu niên như chúng mình, đang ở vào trạng thái hoạt bát, tư duy cũng rất hoạt bát, nếu học máy móc sẽ ức chế tư duy phát triển theo chiều ngang, bị thi cử trói buộc.
Với tiền đề thích ứng với nền giáo dục thi cử, chúng mình còn phải bắt đầu từ hiện thực phấn đấu theo lý tưởng của mình.
Lý tưởng của em chính là làm một nhà văn du lịch khắp hoàn cầu, lái chiếc xe đua Ferrari, đi du ngoạn khắp thế giới; Hoặc là làm một ca sĩ, bởi vì em cũng rất mê say âm nhạc. Có những lý tưởng ấy, em bắt đầu phấn đấu…
Với những người khác, không nên chạy theo phong trào, không nên bị giáo dục thi cử nó trói buộc.
Hãy ghi nhớ, mãi mãi phải làm một người lái xe giỏi.
VŨ PHONG TẠO dịch (Theo www.xywx.org)
Chủ nhật ngày 8/11/2009 NGÔ TẤT TỐ VÀ TẮT ĐÈN TRONG GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌC TRUNG QUỐC Vũ Phong Tạo dịch và giới thiệusong ngữ Hán - Việt)
VŨ PHONG TẠO giới thiệu và dịch
Báo mạng Trung Quốc http: www.hi.baidu.com, ngày 17-5-2009, đã giới thiệu bài của Trương Mạnh Thuỵ giới thiệu nhà văn Việt Nam Ngô Tất Tố và tác phẩm “Tắt đèn” của ông, căn cứ vào tập 1 Bộ sách khá đồ sộ “Tuyển tập tiểu thuyết hiện đại Việt Nam” gồm 3 tập, do Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh (Bắc Kinh đại học xuất bản xã) ấn hành ngày 1 tháng 8 năm 2004. Giá bìa tập 1 là 21,00 nhân dân tệ.
Bộ sách này được coi là giáo trình bắt buộc đối với sinh viên các trường đại học cao đẳng Trung Quốc về ngoại ngữ, chuyên ngành Việt Nam ngữ.
Tập 1 chuyển ngữ và giới thiệu 17 tác phẩm văn học của các nhà văn Việt Nam thời kỳ 1930 -1945, gồm các tác giả Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Công Hoan, Thế Lữ, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố (trích “Tắt đèn” và “Nợ đời”), Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Trần Tiêu, v.v…
Nhân dịp tiến tới Hội nghị Dịch thuật và Quảng bá Văn học Việt nam ra nước ngoài, chúng tôi dịch sang tiếng Việt phần giới thiệu nhà văn Ngô Tất Tố và tác phẩm “Tắt đèn”, kèm theo nguyên văn song ngữ (Hán- Việt) của nguyên bản, để bạn đọc tham khảo). Ngô Tất Tố và “Tắt đèn”
Giới thiệu tác giả:
Ngô Tất Tố, người huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội – VPT), đã từng dùng những bút danh Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Căn, v.v… sinh ra trong một gia đình nho học thanh bần.
Năm 1914 ông bắt đầu hoạt động sáng tác, dịch sách, viết bài cho báo chí, đã công bố nhiều tác phẩm văn chương có tính tư tưởng khá mạnh trên rất nhiều báo tạp chí tiến bộ, vì thế bị mật thám của chính quyền thống trị thực dân Pháp bí mật giám thị, theo dõi.
Năm 1946, nhà văn Ngô Tất Tố tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, ông lên chiến khu Việt Bắc tham gia hoạt động văn nghệ cách mạng, tiến hành sáng tác văn học với nhiều loại đề tài.
Tác phẩm chủ yếu có: Tiểu thuyết “Tắt đèn”, “Lểu chõng”; Phóng sự “Việc làng"; Tác phẩm nghiên cứu “Văn học Việt Nam”, “Lão Tử”, “Mặc Tử”; Tác phẩm dịch “Thơ Đường”, v.v…
Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc, có sở trường về sáng tác đề tài nông thôn. Tác phẩm của ông đã bóc trần không thương tiếc bộ mặt xấu xa, hung bạo tàn ác của bọn địa chủ cường hào phong kiến, đồng tình vô hạn đối với nông dân nghèo khổ. Tác giả khéo léo vận dụng ngôn ngữ đại chúng hoá, bình dân dễ hiểu). Giới thiệu tác phẩm:
Bằng những tình tiết thu thuế ở nông thôn làm tuyến chính, tiểu thuyết “Tắt đèn” đã miêu tả cảnh ngộ bi thảm của gia đình anh nông dân nghèo khổ Nguyễn Văn Dậu.
“Tắt đèn” là một tác phẩm tiêu biểu của Ngô Tất Tố, với nội dung sâu sắc và nghệ thuật khắc hoạ sinh động các nhân vật điển hình của nó, nên đã được độc giả hoan nghênh.
“Tăt đèn” được đánh giá là một trong những tác phẩm có giá trị nhất trong những tác phẩm văn học hiện thực chủ nghĩa trước Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam.
VŨ PHONG TẠO
(Giới thiệu và dịch phần Trung văn) Thứ bảy ngày 21/11/2009
06/02/2010 - 12:09 AM
ĐỦ KIỂU TRỐN THI HÀNH ÁN - BÀI 3:
Vướng người, vướng luật nên dễ né tránh
Nhiều cán bộ thiếu, yếu chuyên môn, kinh nghiệm nên có lúc đã buông lỏng công việc tạo điều kiện cho đương sự trốn thi hành án.
• Doanh nghiệp cũng né
• Quyết tẩu tán tài sản
Đương sự kéo dài, trì hoãn thi hành án ngoài nguyên nhân chủ ý của họ thì trong đó những quy định của luật pháp còn cứng nhắc, chưa chặt và trình độ, năng lực một số chấp hành viên chưa đáp ứng được yêu cầu công việc… cũng là những nguyên nhân lớn. Làm cách nào để tháo gỡ vấn đề trên, nhiều cán bộ “trong nghề” cũng đã đóng góp giải pháp.
Khó áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Ông Bùi Đăng Thủy, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Dăk Lăk, cho biết BLTTDS đã quy định ngay khi khởi kiện, các nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án có một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như kê biên, ngăn chuyển dịch tài sản nhằm ngăn chặn các đương sự có ý tẩu tán tài sản.
Thế nhưng chính ông Thủy cũng băn khoăn, muốn có thể yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nguyên đơn cần phải nộp một khoản tiền tương đương với tài sản cần ngăn chặn gọi là tiền ký quỹ. Luật quy định như vậy nhằm bồi thường cho bị đơn trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời gây thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của họ. Vô hình trung quy định này lại gây khó khăn và rắc rối, nguyên đơn không có đủ tiền để ký quỹ nên không dùng được quy định này.
Ông Nguyễn Hoàng Chiến, Chi cục trưởng Chi cục THADS quận 11 (TP.HCM), cho rằng các nhà làm luật cần xem lại quy định này để có thể áp dụng linh hoạt vào thực tiễn. Như trường hợp nguyên đơn khởi kiện đòi nợ hơn 1 tỉ đồng và yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngăn chặn giao dịch căn nhà của bị đơn để đảm bảo THA. Nếu căn nhà của bị đơn có giá trị hơn 2 tỉ đồng thì chẳng lẽ nguyên đơn lại phải đóng tài khoản ký quỹ một khoản tiền tương đương như vậy. Điều này rất khó cho các đương sự không có nhiều khả năng tài chính.

Nhân sự vừa thiếu, vừa yếu
Trong báo cáo triển khai công tác THADS năm 2010 đã nhìn nhận chất lượng trình độ nghiệp vụ của một bộ phận chấp hành viên (CHV) cũng là một trong những nguyên nhân khiến lượng việc THA tồn ngày càng tăng. Một số cán bộ, CHV của cơ quan THADS còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, khả năng dân vận và kinh nghiệm thực tiễn trong công việc, kỷ cương hành chính có lúc còn bị buông lỏng.
Báo cáo cũng đề cập đến thực trạng tổ chức bộ máy của cơ quan THADS chưa thực sự đáp ứng được công việc. Hiện nay, khối lượng công việc, số lượng tiền, tài sản phải THA ngày một tăng cao trong khi đội ngũ cán bộ THA lại không tăng. Điều này dẫn đến tình trạng CHV bị quá tải công việc. Nguyên nhân chính là do chính sách tuyển dụng, tiếp nhận, thu hút nhân tài chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó, một số cơ quan THADS lại chưa chú trọng đến tuyển dụng, bổ sung thêm biên chế nên xảy ra tình trạng dư biên chế nhưng thiếu nhân sự.
Ông Nguyễn Văn Quyết, Cục trưởng Cục THADS tỉnh Tiền Giang, cho biết tính chất công việc thi hành án phức tạp hơn rất nhiều so với những ngành nghề khác. Có những khiếu nại, tố cáo phức tạp nên đa phần các CHV nếu ngại đụng chạm thì họ sẽ chuyển công tác khác sau một thời gian làm việc, còn các sinh viên trường luật khi mới ra trường cũng ngại khó, ngại khổ nên THA không phải là lựa chọn của họ. Từ đó, nhân sự tại các chi cục THA quận, huyện thiếu nhiều, có nơi thiếu đến mức trầm trọng. Vì vậy, nếu địa phương nào có khả năng tuyển nhiều biên chế thì cứ tuyển để có thể tăng cường cho các địa phương khác còn thiếu biên chế.
Luật chưa chặt chẽ
Bà Mai Thị Thiên Kim, Phó Chi cục trưởng Chi cục THADS quận 1 (TP.HCM), cho biết Luật THADS hiện nay còn rất nhiều điểm chỏi nhau và chỉ hướng dẫn chung chung, chưa cụ thể. Điều này khiến CHV gặp không ít khó khăn khi làm việc. Đơn cử như quy định khi CHV tiến hành nhiệm vụ có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước hỗ trợ thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay mỗi cơ quan, mỗi ngành đều có những quy định riêng nên khi phối hợp thực hiện rất khó có tiếng nói chung.
Ông Trần Quốc Học, CHV Chi cục THADS quận 8 (TP.HCM), cũng đồng tình với nhận định trên và cho biết thêm, một lý do nữa là vào thời gian đầu, thường các đương sự tự thỏa thuận với nhau cách thi hành án. Lợi dụng thời điểm này, chưa có sự can thiệp, ngăn chặn của cơ quan THADS, bên bị THA lặng lẽ đi chuyển dịch tài sản bằng nhiều cách khác nhau. Đến khi hai bên không thể tự mình thỏa thuận được thì bên được THA mới tìm đến cơ quan THADS. Lúc đó thì đã muộn mất rồi, chúng tôi cũng đành bó tay.
Cần có quy định cụ thể về cung cấp thông tin
Thật ra, khi đi vào thực hiện luật THA còn rất nhiều điều vướng mắc. Cơ quan THA nhiều khi không có thông tin từ cơ quan khác. Họ không cung cấp thì THA cũng không làm gì được vì cũng không có quy định chế tài… Để khắc phục vấn đề này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể yêu cầu các cơ quan khác phải hợp tác giúp đỡ THA.
Ông Nguyễn Văn Quyết, Cục trưởng Cục THADS tỉnh Tiền Giang
Mức phí ký quỹ nên thấp hơn
Những nhà làm luật nên cân nhắc lại mức phí đóng để ký quỹ đảm bảo cho THA khi đương sự yêu cầu tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Mức phí ký quỹ hiện nay còn quá cao, không phù hợp với thực tế.
Theo tôi, quy định hiện nay làm khó cho nguyên đơn nhưng nếu không như vậy thì sẽ phát sinh việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tràn lan. Nên chăng những người có trách nhiệm nên xem xét lại mức phí ký quỹ, có thể là từ 2% đến 5% giá trị tài sản cần phong tỏa, kê biên.
Luật sư Đỗ Hữu Điền, Đoàn Luật sư TP.HCM
HỒNG TÚ - PHAN THƯƠNG
Vờ đến biếu quà Tết để cướp
Hai người đàn ông xách "túi quà Tết", nói mang đến biếu ông chủ khiến người giúp việc không chút nghi ngờ mở cửa đón tiếp. Lọt được vào nhà, những vị khách đã khống chế osin, phá két sắt cướp đi nhiều vàng và tiền mặt.


Hàng xóm cho biết ngôi nhà 3 tầng này thường xuyên đóng kín cửa. Ảnh: Hà Anh.
Chiều 5/2, một ngày sau khi bị cướp "viếng thăm", bà chủ ngôi nhà 3 tầng bề thế ở mặt phố Bạch Đằng (Hà Nội) vẫn chưa hết hoàng hồn.
Bà cho biết, chiều hôm trước có hai người đàn ông tìm đến nhà bà khi mọi thành viên trong gia đình đi vắng, chỉ có người giúp việc ở nhà.
Theo kể lại của bà osin, các vị khách bảo quen chồng bà chủ nên mang quà đến biếu dịp Tết. Người giúp việc 57 tuổi tưởng thật nên mở cửa cho vào. Vờ xin nước uống rồi nhân lúc bà này không để ý, hai người đàn ông xông đến trói tay chân và nhét giẻ vào mồm.
Khống chế được người giúp việc, họ phá két sắt của gia đình. Theo chủ nhà, hơn 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ đã bị lấy đi
Hàng xóm chỉ biết sự việc khi chúng bỏ đi và người giúp việc lao ra giữa đường hô hoán.
Theo người giúp việc, một trong hai tên cướp khoảng 40 tuổi.
Hà Anh
Chủ Nhật, 07/02/2010, 08:04
Kinh doanh hoa ở HN: Người Trung Quốc cũng có mặt
TP - Anh Lý Thái Hàng- chủ siêu thị hoa tại chợ Quảng Bá, Hà Nội, là người Trung Quốc. Anh cho biết: “Mỗi ngày cửa hàng nhập hàng nghìn cây mà vẫn không đủ phục vụ khách mua buôn, mua lẻ".


Hoa ở vùng ven Hà Nội

"Nhưng cũng có một số chở về rồi là thấy lỗ ngay vì không đáp ứng thị hiếu của người chơi về màu sắc. Người Việt Nam cũng giống người Trung Quốc, thích gam màu sáng như: vàng, cam, đỏ, hồng bằng những cái tên ý nghĩa như kim tiền, chuỗi ngọc, trạng nguyên, với hy vọng gặp may mắn và thành công trong năm mới.
Giới trẻ Việt Nam thường có xu thế hướng ngoại nên những giống địa lan từ Nhật hay Trung Quốc rất ăn khách, giống hoa Đà Lạt giá cao nên lại khó bán hơn.
“Người tính bồng bột, nóng nảy không chơi được phong lan. Người tính đại khái gặp đâu hay đấy đừng nghĩ đến chuyện chơi bạch trà.
Khi tưới hoa cũng phải dùng nước trong sạch, nếu được nước suối thì tốt nhất. Mà phải vẩy nhẹ như mưa bụi, không được chạm vào cánh hoa.
Tưới phong lan là công việc của các thi sĩ; tưới bạch trà phải là khách văn nhân; tưới mai, tưới cúc phải dành cho các tâm hồn cao thượng như các nhà hiền triết” - Cụ Thi, làng hoa Nhật Tân
Chúng tôi mua giống của Nhật sau đó mang về Trung Quốc gieo mầm, một thời gian chuyển về Sơn La (Việt Nam) chăm sóc vì khí hậu ở đây rất thích hợp cho họ cây này, phải mất ít nhất 6 tháng “định cư”, miệt mài chăm bón ở Mường La chúng tôi mới có được sản phẩm bày bán ở đây.
Làm nghề này phần nhiều dựa vào kinh nghiệm nhưng thiếu may mắn e cũng không ổn”.
Từ lâu, đường Hoàng Hoa Thám trở thành nơi tập kết các loại hoa, cây cảnh nổi tiếng đất Thủ đô và vùng lân cận như: Nam Định, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc...
Dòng người lại nô nức về đây mỗi độ giáp Tết, người ở gần chủ yếu đi thăm thú, chiêm ngưỡng, người ở xa thì lặn lội cất công tìm kỳ được một chậu hoa mang về. Họ coi đó là thói quen lâu dần thành “nghiện” mỗi chuyến vui xuân.
Chị Tố Như, cán bộ tỉnh Lào Cai tâm sự: “Hồi nhỏ sống ở Hà Nội, không năm nào chúng tôi không được bố dẫn ra chợ Bưởi ngắm hoa. Bây giờ ở xa, nhưng mỗi độ giáp Tết tôi lại ghé qua nhà và không quên mua quà Hà Nội mang về Lào Cai một giỏ hoa hồng Đà Lạt hay chậu hoa đỗ quyên. Chúng trở thành vật kỷ niệm khiến mình nhớ lại thủa thiếu thời mà thấy vui vui”.
Bác Hữu Yên, làng Yên Hòa mất cả buổi chiều vẫn chưa chọn được một chậu hoa ưng ý, bởi theo bác “Một chậu hoa đẹp phải có thế, có dáng, đầy đủ tứ quý và tên cây cũng phải ý nghĩa mới hay.
Mọi năm tôi thường mua một bình thủy tiên, củ to, hoa có mùi thơm dễ chịu, lá mượt, dễ trắng muốt để bàn uống nước đó là gu thẩm mỹ riêng của cánh già.
Năm nay tôi định chọn một giỏ lan cát vàng để treo cho lạ mắt nhưng quả rất khó tìm thấy cây nào ưng ý, được hoa lại mất cành, được lá lại hỏng rễ...”.
Bài& ảnh: Nguyễn Thùy Dương
Chủ Nhật, 07/02/2010, 08:05
Đi tìm bóng ma khủng hoảng?
TP - "Mở mắt ra thấy khủng hoảng, nhắm mắt lại nghe khủng hoảng, chiêm bao màng được khủng hoảng, tỉnh dậy ngộ ra khủng hoảng..." - Có một cuốn sách đang nói về điều đó.


"Bóng ma" khởi đầu từ nước Mỹ tháng 9 năm 2008 rồi lan tràn khắp thế giới, làm suy yếu hệ thống tài chính, ngân hàng và doanh nghiệp, một cuộc khủng hoảng khiến người ta không khỏi giật mình trước sự sụp đổ của tư tưởng tự do kinh tế mà Hoa Kỳ đã theo đuổi hàng thế kỷ.
Và chỉ khi hiểu kỹ về biến cố, mới có thể tìm ra giải pháp giảm nhẹ những tác động tiêu cực và tìm lối đi cho hậu khủng hoảng. TS. Nguyễn Đức Hưởng, Phó Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc Ngân hàng Liên Việt, tác giả chủ biên cuốn "Khủng hoảng tài chính toàn cầu - Thách thức với Việt Nam" (Nhà Xuất bản Thanh Niên ấn hành và chính thức ra mắt độc giả tháng 1-2010) tâm sự.
Cuốn sách thể hiện sự công phu của người biên tập trong việc chọn lọc, hệ thống hóa một cách logic các sự kiện được quan tâm. Điểm trong đó, là lịch sử của các cơn khủng hoảng:
"Ngày thứ ba đen tối" (29/10/1929) xảy ra tại Mỹ đến khủng hoảng kinh tế 1973 - 1975 bắt nguồn từ dầu mỏ, khủng hoảng Peso Mexico năm 1994, khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997, khủng hoảng “dot - com" năm 2000…
Qua đó, nhóm tác giả đã tìm ra mối liên kết, phân tích sức ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và năm 2009, đặc biệt là trong 3 lĩnh vực: bất động sản, chứng khoán và ngân hàng? Sẽ khó nhằn vì sách hơi học thuật? Tác giả sách tự hào: "Cách tiếp cận của cuốn sách có nhiều điểm mới, trực diện, tạo sự hấp dẫn, thú vị đối với độc giả".
Năm 2010, kinh tế Việt Nam sẽ ra sao? - Cuốn sách đã chỉ ra: Có thể cơ hội sẽ đến, nhưng cần cảnh giác với một năm "hồi mã thương" của lạm phát và khủng hoảng đối với nền kinh tế và doanh nghiệp ở một số nước có "lực yếu" và không quan tâm đến "cải cách hậu khủng hoảng".
Một trong những nguyên nhân là sức khỏe của các doanh nghiệp sau cú choáng váng bởi khủng hoảng được hồi phục tạm thời nhưng vẫn đang trong tình trạng lúc thì "huyết áp cao", khi thì "tụt huyết áp", chưa thăng bằng, đủ mạnh để bước đi vững chắc.
Dự đoán của tác giả chủ biên cuốn sách về thị trường chứng khoán, bất động sản tại Việt Nam năm 2010? - Sẽ là cuộc "tập trận" của các đại gia hai sàn chứng khoán, bất động sản" và sự giãy chết của "các đại gia nửa vời trên sàn vàng".
Bất động sản và chứng khoán sẽ có những cơn sốt "trồi ít sụt nhiều", các nhà đầu tư nghiệp dư phải cẩn trọng, các ngân hàng sẽ căng thẳng vốn, các doanh nghiệp thiếu vốn, tình hình tỷ giá chắc chắn sẽ biến động theo chiều hướng tăng lên phù hợp với diễn biến của thị trường.
Nhưng năm 2010 cũng đánh dấu một bước thay đổi về chiến lược tiêu thụ. Hàng hóa sẽ chuyển trọng tâm từ xuất khẩu sang tiêu thụ nội địa; sẽ có hàng loạt các vụ mua bán sáp nhập doanh nghiệp, mua bán trái phiếu, công cụ phái sinh và xuất hiện nhiều nhà tư bản mới hậu khủng hoảng.
Một tổng giám đốc viết sách, một doanh nghiệp làm sách: Không mới! Nhưng đáng trân trọng khi ông dự tính 100% doanh thu từ việc phát hành cuốn sách, sẽ được LienVietBank tặng Quỹ tấm lòng Việt làm từ thiện giúp học sinh nghèo vượt khó học giỏi. Làm doanh nghiệp, cũng là làm người. Cần một cái tâm!
Khánh Huyền
NGUYỄN KHUYẾN CHẤM GIẢI THƠ VÀ CÂY HOA TRÀ CHÚC TẾT
Lê Hoài Nam

Mùa xuân năm Ất Tỵ (1905), dưới sự bảo trợ của chính phủ bảo hộ Pháp, quan tuần phủ Hưng Yên, tên là Lê Hoan tổ chức cuộc thi Vịnh Kiều. Cuộc thi diễn ra rất rầm rộ, tạo thành một tao đàn, gọi là Tao đàn Hưng Yên. Lê Hoan muốn qua cuộc thi này để chứng tỏ mình là một viên quan có văn hóa chứ không phải thứ quan ô trọc, nhưng cái mục đích lớn vẫn là chính sách mỵ dân của chính thể thời ấy, muốn dân chúng bị cuốn vào cái ma lực của thi đàn xướng họa mà quên đi thực trạng đói khổ, nước mất nhà tan, mà làm nguội đi tinh thần chống Pháp của những nhân sĩ, sĩ phu.
Để cuộc thi có tiếng vang xa, ảnh hưởng rộng rãi tới nhiều tỉnh thành cả nước, thu hút được nhiều văn nhân – thi sĩ có tầm cỡ, Lê Hoan mời hai danh sĩ lừng danh là Nguyễn Khuyến và Dương Khuê chấm giải.
Thời điểm đó, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyến Khuyến đã cáo quan về sống ẩn dật ở quê nội, trong một khuôn viên có tên là Vườn Bùi, xã Yên Đổ. Khi được mời làm giám khảo, Nguyễn Khuyến toan từ chối, vì thừa biết, trong ván bài này, cụ chỉ là một vật trang sức, một cái bình phong che chắn cho những mưu đồ danh lợi chứ hoàn toàn không nhằm mục đích trấn hưng đất nước, vinh danh dân tộc. Nhưng trước lời mời chào nhiệt thành cùng với áp lực của thời thế, cuối cùng cụ buộc phải nhận lời.
Quả thật, khi được biết giám khảo cuộc thi là hai danh sĩ lớn, các văn nhân – thi sĩ – nhân sĩ và các nhà nho của đồng quê gửi bài dự thi rất đông, trong đó có những nhân vật “tai mắt” cũng “xuất chiêu” như tiến sĩ Chu Mạnh Trinh – quan án sát tỉnh Hưng Yên; Nguyễn Tấn Cảnh – quan tri huyện Văn Giang; Nguyễn Chí Đạo – tri phủ Khoái Châu...
Riêng tiến sĩ – thi sĩ Chu Mạnh Trinh gửi tới hơn hai chục bài (sau này in thành tập có tên là Thanh Tâm Tài Nhân thi tập, hiện nay vẫn còn lưu giữ, tái bản). Với một tác giả có tầm cỡ, lại tham gia nhiệt tình như quan án họ Chu, đồng thời căn cứ vào chất lượng cụ thể của tác phẩm, cụ Nguyễn Khuyến và cụ Dương Khuê đã chấm giải nhất cho ông ta.
Tuy nhiên, trong quá trình chấm, Nguyễn Khuyến không thể không chỉ ra cho Chu Mạnh Trinh những điều mà cụ còn băn khoăn. Chẳng hạn như ở bài Vịnh Kiều bán mình, bản thảo ban đầu Chu Mạnh Trinh viết:
Minh thịnh nay mừng đời thánh đế
Ít phường gái hiếu, ối quan liêm...
Nguyễn Khuyến rất thích chữ “ối” vì nó hàm tính hài hước, mỉa mai cái sự “minh thịnh” của “đời thánh đế” đương thời. Nhưng đến khi bài thơ được vào chung khảo, sợ húy kỵ gì đó với nhà vua và các quan trong triều, thi sĩ họ Chu lại xin chữa thành:
Minh thịnh nay mừng đời thánh đế
Nào phường gái hiếu với quan liêm...
Chữa như thế sẽ là sợi dây an toàn cho tác giả, nhưng ý thơ trở thành nhạt, nhẹ bỗng. Nguyến Khuyến đã không hài lòng về động thái này, thì trong bài Vịnh Sở Khanh, thi sĩ họ Chu lại viết:
Làng nho người cũng coi ra vẻ
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay!
Tránh húy kỵ với vua quan, nhưng lại mạt sát các nhà nho không hàm tước, điều này khiến cụ Tam nguyên thực sự nổi giận. Cụ hạ bút phê ngay bên lề bản thảo:
Rằng hay thì thật là hay
Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa!
Chuyện này chẳng bao lâu đã bay ra ngoài. Dù lĩnh giải cao nhất nhưng Chu Mạnh Trinh vẫn để bụng giận cụ Tam nguyên, chờ dịp trả đũa.
Rồi dịp ấy đã đến. Đó là tết Nguyên Đán năm liền kề sau đấy, tết Bính Ngọ. Chu Mạnh Trinh sai người hầu mang một cây hoa trà vượt sông Hồng sang Vườn Bùi tết cụ Nguyễn Khuyến. Thi sĩ họ Chu quan niệm: hoa trà đẹp nhưng không có hương. Tết chậu trà, Chu Mạnh Trinh có ý chửi ngầm cụ Tam nguyên, rằng cụ thẩm thơ tôi mà chỉ biết có cái vẻ hào nhoáng bên ngoài chứ không thấy được cái hương vị sâu lắng bên trong, vậy thì cụ chỉ xứng đáng chơi cây trà hoa đẹp mà không có hương này thôi.
Dịp ấy, mắt cụ Tam nguyên đã chớm bị lòa. Mượn cớ ấy, cụ liền viết một bài thơ với ý tứ rất thâm hậu “phúc đáp” lại tiến sĩ – thi sĩ họ Chu:
Tết đến người cho một chậu trà
Đương say ta chẳng biết rằng hoa
Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ!
Áo tía đai vàng, bác đấy a?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá
Gió to, luống sợ lũ dơi già
Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi
Đếch thấy mùi thơm, một tiếng khà
Khỏi phải nói khi thi sĩ họ Chu nhận được món lễ tạ này tâm trạng ông ta sẽ như thế nào. Cũng có thuyết nói rằng, vì bài thơ ấy mà Chu Mạnh Trinh đã làm đơn xin từ chức quan án sát. Nhưng nhiều người lại cho rằng, với một viên quan ham danh mà cũng không nhạt lòng với lợi như thi sĩ họ Chu, khả năng làm đơn xin từ chức vì lý do trên là rất ít. Khả năng ông ta từ chức vì sức khỏe là phần nhiều.
Trở lại chuyện Nguyễn Khuyến chấm giải thơ. Với một cuộc thi diễn ra trong một môi trường xã hội nhiều nghịch cảnh, đa tâm thế như vậy, dù cụ Tam đã chấm rất công bằng, đúng như lương tâm sai khiến, cụ vẫn thấy lòng dạ có gì đó bất an. Cụ không cảm thấy vinh hạnh gì cái chức giám khảo cuộc thi. Cho nên vào caí hôm diễn ra lễ tổng kết, trao giải, trong bữa tiệc liên hoan, các tân khoa cứ đua nhau chúc tụng khá ồn ào, thì cụ Nguyễn Khuyến đứng lên nói:
- Các quan, các thầy đã có thơ vịnh Kiều được giải, ta xin có lời mừng. Còn ta, được mời làm giám khảo ta cũng có mầy dòng vịnh Kiều đáp lễ như sau:
Thằng bán tơ kia dở dói ra
Làm cho bận đến cụ Viên già
Muốn yên phải biện ba trăm lạng
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa
Rước khách mượn màu son phấn mụ
Đem thân chuốc lấy tội tình cha
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a?
Mọi người xôn xao lên khen bài vịnh hay thật là hay. Riêng ông quan tuần phủ Lê Hoan, chủ xướng cuộc thi thì mặt có tái đi một thoáng, bởi ông này nhận ra cụ Tam mượn chuyện vịnh Kiều “đá xéo” mình. Đặc biệt ở hai câu: “Có tiền việc ấy mà xong nhỉ. Đời trước làm quan cũng thế a?”. Viết như thế cũng có nghĩa cụ Tam hỏi: Cái thời diễn ra trong truyện Kiều, làm quan cũng “có tiền việc ấy mà xong nhỉ” như thời ta đang sống này a? Bị cụ Tam đá đau nhưng quan tuần phủ Lê Hoan vẫn coi như không biết, bởi cái sự “thành công mĩ mãn” của cuộc thi, trong đó có vai trò trọng yếu của cụ Tam, mới là mối lợi to lớn y thu hái được qua canh bạc này.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Khuyến và giai thoại, Hội VHNT Hà Nam Ninh, 1984.
- Giai thoại làng Nho, sài Gòn, 1966.
- Đại Nam thực lục chính biên, nxb KHXH.
Cổ Nhuế - Hà Nội, mùa đông 2009.
Thứ bảy ngày 6/2/2010
ĐÃ PHÚC, ĐÃ LỘC, LẠI CÒN THỌ!
Trần Huy Thuận


Năm hết Tết đến, mọi người lại tiến hành việc trang hoàng nhà cửa để đón xuân! Bộ Tam đa Phúc – Lộc – Thọ thế nào cũng được chủ nhân chăm chút nhiều nhất. Cũng là điều hiển nhiên, bởi “Phúc”, “Lộc”, “Thọ” là ba điều mơ ước thường nhật của mỗi người, mỗi nhà! Vì lẽ này mà cũng có người chê bai, bình phẩm rằng:
Đã Phúc, đã Lộc lại còn Thọ!
Sao tham nhiều thế hỡi nhân gian?
Chẳng trách Đảng ta “xây, chống” mãi
Mà phường tham nhũng vẫn trơ gan!
Chẳng qua tức cảnh mà nói đùa thôi, chứ ai chẳng mong cha mẹ, ông bà và bản thân trường thọ? Còn phúc và lộc thì biết mức nào là đủ? Xưa các cụ dạy: “Một con một của ai từ?”! Cái cần nói là hưởng sao cho chính đáng, cho hợp đạo Trời, lòng người!
***

Lộc
Trước hết xin bàn về chữ Lộc. Lộc dù là tranh, là tượng hay là chữ, cũng không bao giờ đứng riêng một mình. Bao giờ cũng đứng cùng hai ông Phúc, Thọ thành bộ tam đa! Phải chăng người ta, nhất là các quan không muốn cái ham muốn của mình nó thể hiện ra một cách lộ liễu quá? Cũng không phải ngẫu nhiên mà người xưa đặt Lộc vào vị trí trung tâm, hai bên là Phúc và Thọ. Đấy chính là ý răn dậy sâu xa của Tiền nhân với hậu thế: Hưởng Lộc phải nghĩ đến tạo Phúc, cầu Thọ. Nhắm mắt thu Lộc bất minh, bất chấp Phúc, Thọ, thì thật nguy hại!
Trong bộ tam đa, ông Lộc được hình tượng bằng một vị quan “cân đai bối tử” đề huề! Điều đó thể hiện một điều: đã làm quan, tất có lộc; lộc tức là quan! – Như vậy, có thể khẳng định, từ xa xưa, dân ta đã biết, đã hiểu: lộc với chức quan, là một! Các Quan cũng không nên cho nhận định như thế là xúc phạm đến bản thân!
Lộc, có thứ của vua ban, có loại của dân biếu. Vua ban để úy lạo bầy tôi của mình, đã chí công vô tư, thay vua cai quản, chăn dắt đám dân chúng dưới quyền! Còn dân kính biếu quan, để bày tỏ lòng biết ơn về một công việc gì đó, quan đã vì quyền lợi chính đáng của dân, mà làm. Như vậy hoàn toàn có thể nói Lộc chính là sự ghi nhận công lao các quan: công lao với dân và công lao với vua, với nước. Có công lao thì có lộc! Và đấy cũng là tiêu chí để phân biệt quà “biếu” với “hối lộ”! Không công lao, mà nhận quà, nhận thưởng, thì đó là thứ hưởng thụ bất minh, bất chính! Ví như ai đó lợi dụng chức quyền mà o ép, bắt nạt dân lấy tiền; hoặc nhận tiền của kẻ bất lương rồi bỏ qua luật lệ, phép tắc, đạo lý, chà đạp lên quyền lợi chính đáng của dân lành – thì những đồng tiền như thế làm sao có thể gọi là Lộc được? Mà có cố tình ngụy biện đó là lộc thì thứ lộc ấy cũng không bền, hưởng nó sẽ chuốc họa vào thân - không chóng thì chầy, không nhãn tiền thì cuối đời, như cách nói của dân gian, cũng lãnh đủ. Xem ra, điều này hầu như không hề có ngoại lệ! Thực tế cuộc sống đã từng kiểm chứng!
Hưởng Lộc phải nghĩ đến tạo Phúc, cầu Thọ. Phải chăng cũng chính vì lẽ ấy mà người ta bao giờ cũng thờ cùng một lúc ba vị tam đa Phúc – Lộc – Thọ!

Phúc
Thế nào là có phúc?
Quan niệm phổ biến xưa kia đều cho rằng người nào có con (trai) cháu (trai) tức có người nối dõi tông đường, là người có Phúc. Vì lẽ này mà Phúc có hình tượng một cụ già có đàn con cháu đông đúc vây quanh! Đó là suy nghĩ lỗi thời, nhiều năm trước tưởng đã rơi vào quên lãng; ai ngờ gần đây lại phục hồi và phát triển khá mạnh mẽ, dẫn đến nguy cơ mất cân bằng giới tính! Có con có cháu mà chúng lại bất hiếu, thậm chí lại mắc vào nghiện ngập ma túy, trộm cắp, tham nhũng, thì bất hạnh đó còn lớn gấp nhiều lần nỗi bất hạnh không con!
Một quan niệm khác cũng khá phổ biến: “Con hơn cha là nhà có phúc” có thật đúng như vậy không? Bởi vì nếu công nhận điều ấy, thì, tất cả những nhà mà con cái không vượt qua được cái bóng của người cha, đều vô phúc cả sao? Cái mệnh đề này hiểu theo nghĩa tương đối thì có thể chấp nhận, chứ quyết đoán tuyệt đối thì e không thông! Đấy là chưa suy xét tới nội dung của cái hơn đó là gì! Bởi nếu sự hơn lại ở chỗ ăn chơi, hưởng thụ thì đấy chắc chắn là sự vô phúc rồi, chứ đâu còn là phúc?
Học thuyết Phong thủy thì cho rằng, việc đặt mồ mả tổ tiên có ý nghĩa quyết định đến việc ai trong dòng tộc được hưởng Phúc (gọi là âm phúc). Vì lẽ này mà nhiều khi sinh ra nghi ngờ động cơ của nhau, cho rằng người đề xướng có thể chỉ nghĩ đến lợi cho phía đằng mình. Thế là mâu thuẫn nặng nề, thậm chí dẫn đến từ nhau trong gia tộc, sau khi xây mộ gia tiên!
Làm việc thiện, giúp đỡ người khó khăn, người hoạn nạn, cũng được coi là làm phúc. Với ý nghĩa này thì phúc và đức thường gắn chặt, đi đôi với nhau.
Mỗi khi ai đó thoát khỏi một mối nguy cơ nào đấy, như vượt qua được một căn bệnh hiểm nghèo; một tai nạn khủng khiếp. Hoặc thoát khỏi sự liên lụy tới một vụ bê bối về tài chính, một vụ làm ăn phi pháp vừa bị đổ bể! Trong những trường hợp như thế, người ta thường xoa tay: “Phúc quá, không thì chết, chết cả nút!” – Phúc đây là “Phúc ấm của Tổ tiên!”.
Phổ biến nhất là quan điểm: Tạo phúc là một quá trình của nhiều đời, nhiều thời gian (phúc dày). Chính vì thế mà có câu: “Nhờ phúc bảy mươi nhăm đời nhà nó, chứ không...!”. Đã có những người con dâu hiếu thảo, khi vợ chồng làm ăn phát đạt, đem tiền biếu cha mẹ chồng, đã nói rất hay rằng: “Chúng con có được như ngày nay, là nhờ phúc của cha mẹ, chứ không hoàn toàn của chúng con”. – Khéo không! Thế thì cha mẹ nào còn nỡ từ chối? Làm việc Phúc là phải quên như chưa hề làm, là không bao giờ được kể lể công lao, khoe khoang thành tích thì may ra mới có phúc - ấy là điều các cụ xưa vẫn dạy!
Điều cần ghi nhớ: Phúc, không dễ mà có được, cũng không phải cứ cầu là được. “Phúc bất trùng lai” chứ không như họa, họa thường không đến một mình: “Họa vô đơn chí!”.
Cho nên ai ai cũng cần chăm lo tạo phúc, cho mình và hơn thế nữa, cho con cháu mình. Tạo phúc phải đặt lên trước hết, trên hết, là cách hiểu đúng đắn nhất, của mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Người xưa khuyên: “Hãy ăn ở thế nào để có thể để phúc lại cho con, cho cháu!”. Phúc là tài sản để lại mang ý nghĩa bền chặt nhất! Một khi đã vô phúc thì tiền của chả còn ý nghĩa gì nữa!

Thọ
Không rõ thực vật thế nào chứ trong giới động vật thì có thể đoan chắc điều này: Không có con nào lại không ham sống, sợ chết nghĩa là đều muốn... thọ! Con người lại càng thế. Nhưng người khác con ở chỗ, khi cần thiết, dám hy sinh mạng sống của mình vì đại nghĩa, vì Tổ quốc, vì cả người khác nữa! (đôi khi con cũng chiến đấu xả thân, nhưng đa phần vì miếng ăn, tức vẫn chỉ vì sự sống của bản thân hoặc con cái chúng mà thôi!).
Mọi người hẳn đều thuộc nằm lòng câu: “Sinh có hạn, tử bất kì”. Vâng, quả là thiên nhiên vĩ đại thật! Nếu như tử cũng tính được hạn định cụ thể như sinh, thì e rằng cuộc sống sẽ giảm thi vị đi nhiều lắm. “Bất kì” mới tạo nên sức hấp dẫn đến cùng và niềm hy vọng khôn nguôi, đối với cuộc sống tất cả chúng ta! Người ta còn phân biệt: một ai đó chết trẻ, thì khi cáo phó phải dùng chữ hưởng dương, chứ không được dùng chữ hưởng thọ. Cho nên thọ chính là một trong những tiêu chí của hạnh phúc - đối với bản thân người thọ cũng như với con cháu... người ấy. Thọ cũng là đặc trưng của xã hội tiến bộ, bởi sự đóng góp to lớn của những phát minh vĩ đại về công nghệ nói chung và y học nói riêng.
Nhưng con người chúng ta thường khi về già hay tự đặt câu hỏi: “Thọ thế nào thì vừa? Thọ có thực sự là một điều hạnh phúc không?”. Trả lời câu hỏi này thật không đơn giản chút nào!
Ý tưởng của câu hỏi trên không nằm ở chỗ muốn tìm giới hạn của sự sống, mà chính là muốn bàn xem sống đến khi nào, sống trong tình trạng thể xác và tinh thần ra sao, xứng đáng gọi là thọ? Bởi vì thọ luôn luôn gắn với hạnh phúc. Một khi đã không còn hạnh phúc, thì thọ chả còn ý nghĩa gì cả! Thọ, trong trường hợp ấy, để làm gì? Trong thực tế, không một ai muốn chết cả; già yếu ốm đau đến mấy, với suy nghĩ “còn nước còn tát”, cũng vẫn muốn được cứu chữa để sống. Ngược lại, cũng có người tự thấy mình… “đã đến cõi”, bệnh quá hiểm nghèo, không nên làm phiền con cháu, thanh thản chấp nhận ra đi, về cõi vĩnh hằng. Mong rằng chỉ ốm qua loa đôi ba tuần, đủ để con cháu trả nghĩa, rồi được theo về với Tổ tiên là hạnh phúc nhất!
Gần nhà tôi, xưa, có một cụ bà, khi sống thì suốt ngày còng lưng làm lụng hết nuôi con lại nuôi cháu. Đến lúc già yếu, ốm đau phải nằm liệt một chỗ, lại không có lương hưu. Con cháu cho dọn dẹp cái bán mái vốn xưa là chuồng lợn, để đưa cụ xuống nằm đấy... chờ chết! Con cháu nói lý: “Phải đưa xuống đấy thôi! Suốt ngày cụ đái dầm ỉa rề, thối ai mà chịu nổi!”. Và: “Cụ sống, nhưng cũng phải để cho con cháu sống với nữa chứ?”. Có lý lắm! Nhưng khốn nạn thay, những trường hợp như thế lại rất khó chết; nghĩa là lại rất thọ! (Thật lạ lùng, ăn ở với mẹ đẻ nhẫn tâm đến vậy, mà tay quý tử này vẫn thăng quan tiến chức đều đều, trong mấy năm liền sau đó?).
Một vụ khác, không ở tổ dân phố tôi, mà ở tổ bên cạnh. Đó là một cụ ông. Cụ là một cựu chiến binh, lương đại tá bốn năm triệu gì đó. Cụ mắc chứng cao huyết áp, bị đột quỵ, rồi nằm suốt trên giường, sống đời sống thực vật mười mấy năm trời nay! Cụ không nghe thấy gì (hay là giả đò làm ra như thế?), không nói và do đó cũng không đòi hỏi gì trong suốt ngần ấy năm. Những năm đầu còn có họ hàng, bạn bè, người thân qua lại hỏi thăm; sau cứ thưa dần. Mấy năm nay thì chỉ mình cụ nằm bất động như chết trên chiếc giường quen thuộc với lủng củng mấy đường ống dẫn ra và dẫn vào cơ thể cụ. Vợ con vẫn chăm sóc cụ hằng ngày rất chu đáo. Không chu đáo thì sao cụ sống được ngần ấy năm? Vả lại có nặng nề gì lắm đâu mà không chu đáo? Việc ăn, uống, tiểu tiện, đại tiện của cụ đều qua đường ống tất; rút ra thay rửa là xong! Năm nay cụ đã ngoài tám mươi, và cứ tình trạng này, chắc cụ còn thọ chưa biết đến bao giờ? Cụ càng thọ, con cháu càng mừng, vì lương cụ rất cao!
“Thọ thế nào thì vừa? Thọ có thực sự là một điều hạnh phúc không?” - Giá như có ai đó trả lời được câu hỏi này!


Thứ bảy ngày 6/2/2010
HÃY GIỮ LẤY NỖI BUỒN
Đỗ Trọng Khơi


Có thể nói, hai chữ buồn – vui quán xuyến mọi sinh hoạt, mưu cầu của con người trong cuộc sống thường ngày. Nỗi buồn lớn nhất đến với con người vào lúc nào, nếu có thể gọi tên được nó? Theo tôi, nỗi buồn lớn nhất, không gì khác là nỗi buồn con người phải sống trong cảnh đất nước có chiến tranh. (Lẽ thường là thế!) Tử biệt, sinh ly. Mẹ mất con, vợ mất chồng – Cái hoạ treo trên đầu mỗi gia đình sớm tối. Còn niềm sướng vui lớn nhất đến với cuộc sống con người vào lúc nào? Về niềm vui khó hơn trong một hoàn cảnh chung. Nếu có thể có một hoàn cảnh chung hưởng niềm vui cho mọi nhà, mọi người thì hẳn đó chính là niềm vui đất nước yên bình. (Lẽ thường là thế!) Tuy vậy, niềm vui vốn mang nhiều nét riêng, nó vụ lợi hơn, ích kỷ hơn và vì vậy, nó chật hẹp cá nhân hơn. Bởi thế chăng trong cảnh sống hoà bình con người thường lại hay chia rẽ, cạnh tranh, nhiều lúc còn dẫn đến chà đạp, sát hại lẫn nhau. Tranh quyền, đoạt lợi. Đó là căn bệnh vô cùng tệ hại của thời bình. Và thế là nỗi buồn một lần nữa lại đến với con người! Song dù buồn đau thế nào vẫn còn có cơ hội để chia sẻ, cứu chuộc, chỉ khi lòng tham lam, sự tranh đoạt đến mức con người biến mình thành vật sở hữu ngược lại cho thứ mình cần, như thành nô dịch cho đồng tiền hay quyền chức thì khi ấy căn bệnh ác nghiệt nhất mới xẩy ra, đó là bệnh vô cảm. Thời chiến tranh, nơi trận mạc tên đạn vô tình tính vô cảm xẩy ra còn dễ hiểu, trong thời bình sao căn bệnh này lại vẫn nẩy sinh? Một kẻ nào đó sống vô cảm tất kẻ đó sẽ làm việc thậm ác độc. Một xã hội mà trong đó có nhiều kẻ sống vô cảm tất đi kèm nhiều nhiều hơn kẻ sống e dè, thờ ơ, đèn nhà ai nhà ấy rạng và hai loại người này như một cặp bài trùng cộng lại, chúng sẽ tạo thành một xã hội thường tàn cả về cơ thể lẫn lương tâm. Khi ấy pháp quyền, pháp luật sẽ khoanh tay bất lực và có khi nó còn được thế lực phi nghĩa sử dụng làm công cụ để “rửa ác”. Nghĩa là cái ác được tấn phong!
Con người, xã hội cần phải làm gì trước căn bệnh VÔ CẢM, nếu nó đã xẩy ra, nó đang có nguy cơ trở nên phổ biến? Xin thưa, duy nhất một phương thuốc có công hiệu cứu chữa và phương thuốc này luôn ẩn mang trong lòng người, là NỖI BUỒN!
Hãy giữ lấy nỗi buồn! Hãy làm lớn dậy nỗi buồn trong tấm lòng mỗi con người, trong lòng thời đại!
Đêm cuối năm, Kỷ Sửu
ĐTK
Thứ bảy ngày 6/2/2010

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét