Thứ Tư, 17 tháng 2, 2010

Tết con Hổ

Sáng nay 18/2/2010, ngày thanh toán đầu năm của XS, mình mua cho bầm cái bánh tẻ nóng ở 88 Lê Lợi, lấy nước nóng và giặt giũ quần áo được ngâm từ hôm qua. Thực hiện chương trình mai ngày 6/1/CD Tháp lên đền Thượng nên sáng nay vào mẹ Ba một lát cho yên tâm, ngoài này mình xếp vé mấy ngày tới mở cửa chạm vào ATTOMAT nên mất điện, chờ mãi họ đóng, nhìn sang bên kia mới biết là chỉ riêng phòng mà thôi...tiếp tục chỉnh sử và vào máy như thường nhật. Hỏi bến Sơn Tây 3383 2577 xem xe đi Hà Nam cho Hải vào ngày mai ở Sơn Tây...Trước hết xem trên bản đồ của tỉnh...xe NĐ 6:45; xe PL 13:00 hằng ngày...
Tết con Hổ

Năm nay là Tết con Hùm
Chúc dân Thế Giới đừng cùm gông nhau
Chúc cho toàn thể Địa Cầu
Đừng tranh chấp đất nỗi đau truyền đời
Cùng nhau chung sống vui tươi
Ấm no hạnh phúc tình người trắng trong
Tay nắm tay kết nối vòng
Muôn màu da đẹp một lòng thủy chung
Dẫu cho trời đất nổi xung
Cũng không cướp được công bằng tự do
Đấy là tạo hóa ban cho
Nào đâu phụ thuộc trông chờ vào ai
Tự thân rèn luyện Đức Tài
Vững vàng trong mọi thiên tai,… hại người
Giữ gìn Quả Đất muôn đời
An lành Hạnh Phúc tuyệt vời Tự Do

Kính thư Nguyễn Đăng Minh Thứ ba ngày 16/2/2010

BỐ TÔI BẢO THẾ - NHÓM LỬA ĐỪNG RUN TAY
Trần Nhương


Thứ Năm, 18/02/2010 - 9:25 AM
Đầu xuân và những câu chuyện về phở
Tốt nghiệp cao đẳng Ẩm thực trường Kỹ thuật tổng hợp Hà Nội, Nguyễn Tiến Dũng vào Sài Gòn mở quán phở Hà Nội Nhớ trên đường Trần Nhật Duật. Quán nằm trên con đường yên tĩnh, khách cũng không nhiều, nhưng Dũng bằng lòng với công việc của mình.

Một quán phở Hà Nội. Khách tự xếp hàng, bưng phần của mình đến bàn sau khi trả tiền

Cái bảng hiệu Hà Nội Nhớ đã tạo ngay ấn tượng, cảm xúc cho những người Hà Nội ở Sài Gòn, rồi đến hương vị của phở Hà Nội. Dũng kể, có một cụ già người Hà Nội ngay từ lần đầu tiên đến ăn đã bồi hồi thốt lên: “Đúng là phở Hà Nội !”.
Từ đó, ông cứ đến thường xuyên, có khi dắt theo người nhà, có khi là bạn bè cùng quê Hà Nội. Rồi một hôm, ông mang đến tặng cho Dũng mấy hộp thiếp quảng cáo Hà Nội Nhớ, ông nói ông đã tặng cho rất nhiều người quen để giới thiệu cho Dũng.
Chưa ai thống kê xem Sài Gòn có bao nhiêu quán phở Hà Nội, và trong hàng chục, hàng trăm quán phở mang tên Hà Nội ở Sài Gòn, cũng khó mà xác định đâu là phở Hà Nội thật, đâu là sự mạo danh. Nhưng, cho dù là sự mạo danh chăng nữa thì tự thân cái sự mạo danh ấy cũng đã minh chứng cho sự lừng danh của phở Hà thành.
Đạo diễn Thế Ngữ là hội viên câu lạc bộ văn hoá ẩm thực của Unesco, thường được mời đi nói chuyện về phở.
Là người chính gốc Nam Định, ông từng nghe cha ông và các cụ già ở đây kể lại rằng, những năm đầu thế kỷ 20, người làng Vân Cù, bên kia sông Đò Quan, thuộc huyện Nam Trực xuất hiện tại khu nhà máy dệt Nam Định với những gánh hàng ăn rất lạ để bán cho công nhân: một bên là bếp lửa với nồi nước dùng nấu xương bò, một bên là gióng hàng gồm thịt bò, hành lá, bánh tráng thái nhỏ từng sợi.
Những sợi bánh ấy cho vào bát cùng với thịt bò thái mỏng, hành lá cũng thái mịn rồi rắc lên, sau đó châm nước dùng đang sôi vào tô bánh, cho ra một loại thức ăn vừa nhanh, vừa lạ, vừa ngon.
Ban đêm, ánh lửa bập bùng từ những gánh hàng trên phố, thấy lạ, người Pháp ngạc nhiên vừa chỉ chỏ, vừa bảo : Au feu ! Au feu ! Người Việt đặt tên cho những gánh hàng ấy là phơ, rồi dần dà đổi âm thành phở.
Phở từ Nam Định ra Hà Nội và trở thành “văn hóa phở” từ khi nào, chưa ai xác định. Trong tác phẩm Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài có đoạn viết: “Gánh phở ông Tàu Bay xưa đỗ cạnh dốc bên gốc cây thị đầu sân vào sở Văn Tự… có lẽ cũng như chỉ tình cờ một câu bông đùa cái mũ da lưỡi trai hơi dài khác thường của ông hàng so sánh với chiếc mũ phi công mà thành tên phở Tàu Bay, một hàng phở gánh buổi sáng”.
Trong hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy lại có đoạn: “Tại Hậu Hiền - Thiệu Hoá, có gia đình nghệ sĩ khác, người con trai là Đỗ Thiếu Liệt chơi violon, bố mở quán phở Tàu Bay rất nổi tiếng. Trên vách tường bên ngoài quán phở ghi mấy câu thơ quảng cáo theo lối hài hước:
Những ai quá phố Hậu Hiền
Hễ có đồng tiền đến phở Tàu Bay
Giá tuy đắt đắng đắt cay
Ngon chẳng đâu tày, nức tiếng gần xa.
Theo tài liệu mà chúng tôi có được thì gánh phở Tàu Bay trong Cát bụi chân ai của Tô Hoài và quán phở Tàu Bay trong hồi ký của Phạm Duy là của hai con người ở hai không gian khác nhau nhưng lại bắt đầu từ một câu chuyện tình người, tình bạn khá ly kỳ và cảm động.
Gánh phở Tàu Bay mà Tô Hoài mô tả là của ông Phạm Đăng Nhàn, tức người chủ đích thực của quán phở Tàu Bay trên đường Lý Thái Tổ - Sài Gòn ngày nay, còn quán phở Tàu Bay trong hồi ký của Phạm Duy là quán phở của ông Đỗ Phúc Lâm, thân sinh của nhạc sĩ Việt kiều Đỗ Thiếu Liệt, hiện sinh sống ở Canada.
Ông Nhàn xuất hiện với gánh phở ở vườn hoa Hàng Kèn, trước cổng sở hưu bổng Đông Dương từ năm 1938. Phở của ông ngon nổi tiếng nhưng khách qua đường không biết ông tên gì, chỉ thấy ông đội chiếc mũ cát két cũ của phi công nên gọi ông là Tàu Bay, và nổi tiếng khắp Hà Nội với biệt danh phở Tàu Bay.
Mỗi sáng, khách từ chợ Ngọc Hà, bến xe Kim Mã, thậm chí từ chợ Mơ cũng kéo tới ăn phở Tàu Bay làm ồn ào trước sân công sở, viên chánh sở người Pháp nổi giận bèn ra lệnh đuổi ông. Người chủ sự của sở hưu bổng Đông Dương lúc bấy giờ là ông Đỗ Phúc Lâm, vốn mê ăn phở Tàu Bay nên năn nỉ viên chánh sở cho ông Nhàn được bán. Từ đó, ông Lâm trở thành người ơn của ông Nhàn.
Sau tháng Tám năm 1945, ông Lâm mất việc, lại phải nuôi một đàn con, ông Nhàn giúp ông Lâm mở quán phở tại số 20 Nguyễn Trãi, cho lấy thương hiệu Tàu Bay và cho đứa cháu sang hướng dẫn cách làm phở. Nhờ đó mà quán phở Tàu Bay của ông Lâm sớm nổi tiếng, có hôm khách phải ngồi cả ở vỉa hè.
Năm sau, kháng chiến toàn quốc nổ ra, ông Lâm theo dân tản cư về chợ Chồ, Thiệu Hoá, gần làng Ngò, căn cứ của những văn nghệ sĩ và trí thức nổi tiếng. Từ đó mà phở Tàu Bay của ông Lâm cũng nổi tiếng trên xứ Thanh và đi vào ký ức của nhạc sĩ Phạm Duy như đã kể trên.
Riêng ông Nhàn vẫn tiếp tục gánh phở cho đến năm 1954, di cư vào Sài Gòn và mở quán phở Tàu Bay trên đường Lý Thái Tổ. Ông mất năm 1976, phở Tàu Bay trở thành gia sản của bốn người con và gần mười người cháu nội, cháu ngoại giữ gìn và phát triển thương hiệu đến bây giờ.
Theo đạo diễn Thế Ngữ thì phở chính hiệu gốc Hà Nội có mặt ở Sài Gòn, sau phở Tàu Bay là phở Dậu nằm trong con hẻm trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, gần ngã tư Lý Chính Thắng và phở Bắc Hải trên đường Hồng Hà, gần sân bay Tân Sơn Nhất. Riêng phở Thìn, một thương hiệu nổi tiếng ở Hà Nội cũng có mặt ở Sài Gòn qua nhiều năm với những chuyện thật giả khác nhau.
Cách nay vài năm, chúng ta thấy có vài quán phở Thìn ở Sài Gòn, nhưng theo chị Bùi Thị Thanh Mai, con gái út của ông Bùi Chí Thìn, người sáng lập ra thương hiệu phở Thìn Hà Nội thì chẳng qua đó là sự mạo danh.
Chị Mai nói, phở Thìn không đăng ký nhãn hiệu độc quyền nên bị mạo danh ở nhiều nơi, nhưng dường như sự mạo danh ấy không tồn tại được bao lâu vì người ta không thể tạo được cái hương vị như phở Thìn chính hiệu.
Theo chị Mai thì phở Thìn xuất hiện ở Hà Nội từ những năm 40. Cha chị, ông Bùi Chí Thìn bắt đầu từ một gánh phở ở chợ Hom, về sau mua nhà mở quán tại 61 Đinh Tiên Hoàng, bên hồ Hoàn Kiếm. Thời ấy, muốn ăn phở Thìn phải xếp hàng, trả tiền rồi bưng tô phở tự tìm chỗ ngồi ăn, có khi hết bàn ghế phải ra ngồi chồm hổm ngoài vỉa hè.
Năm 1978, ông Thìn vào Sài Gòn mở thêm chi nhánh ở 235 Cách Mạng Tháng Tám, tuy đông khách nhưng chỉ tồn tại khoảng chín năm thì giải tán. Lý do, theo chị Mai, ông Thìn có chuyện gia đình, buộc phải trở về Hà Nội.
Ông mất năm 2001, để lại chín người con, trong đó năm người con trai đều nối nghiệp ông với năm quán phở mang thương hiệu Phở Thìn Bờ Hồ nổi tiếng ở các phố Đội Cấn, Lê Văn Hưu, Nghi Tàm, Hàng Mắm, Đinh Tiên Hoàng.
Năm 2009, chị Bùi Thị Thanh Mai, con gái út của ông Thìn vào Sài Gòn mở quán phở Thìn ở 170 Nguyễn Đình Chiểu, coi như đây là “cuộc Nam tiến lần thứ hai” của phở Thìn.
Theo Võ Đắc Danh
Báo SGTT
Giấy phép hoạt động báo điện tử Dân trí trên Internet số 1050/GP - BTTTT Hà Nội, ngày 15-07-2008.
Tòa soạn: Nhà 5, số 2 Giảng Võ, Quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 04-736-6491.Fax: 04-736-6490
Email: info@dantri.com.vn. Website: http://www.dantri.com.vn


Nhân ngày kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, tôi vào mạng đọc lại lịch sử. Lòng tôi tự hào về ông cha mình oai hùng dám đứng lên đánh trả quân Mãn Thanh xâm lược. Nhưng tôi cứ nghĩ mãi vì sao thời ấy nước ta dân số ít, làm nông là chính mà không sợ quân Tầu hùng mạnh mấy chục vạn tinh binh. Tôi đem thắc mắc ấy hỏi bố tôi. Bố tôi ngồi thư thái bên chén trà đầu xuân, nhìn tôi, đôi mắt ánh lên vừa trìu mến vừa kiên nghị.
- Con học lịch sử con biết nước mình nhỏ, sức lực có hạn so với các cường quốc đều như châu chấu đá xe. Anh Tầu to vật vã, anh Pháp đồ sộ, anh Mỹ hùng cường nhưng đều “lấm lưng” vì chàng Thạch Sanh Việt Nam.
- Vâng, đúng như thế. Cái gì làm nên sức mạnh ấy hả bố ?
- Ta có chính nghĩa, thuận lòng trời, ta có văn hóa Đại Việt và lòng yêu nước vô bờ bến. Bác Hồ khi kêu gọi Toàn quốc kháng chiến vì Bác được dân tin yêu, tôn Bác là thủ lĩnh. Có người hỏi Bác ở đảng nào Bác trả lời Tôi là Đảng Việt Nam. Tức là chỉ có dân tộc, đất nước, xã tắc Việt mà thôi.
- Nhưng hồi vua Quang Trung thần tốc từ Phú Xuân ra giải phóng Thăng Long đâu có thuận như thời Bác Hồ ?
- Mỗi thời có cái khó của nó. Vấn đề là lòng yêu nước sẵn sàng bùng lên nhưng cần một bàn tay nhóm lửa được tin yêu .
- Bố nói hay như một nhà tuyên giáo.
- Thì vưỡn, bố trên cả nhà nhà tuyên giáo “vẹt” ấy chứ.
Bố tôi vỗ vai tôi, giọng trầm xuống như rút ruột nói từng lời:
- Vấn đề là thủ lĩnh đừng hèn. Run tay lẩy bẩy thì nhóm sao được lửa. Vua Quang Trung là một thủ lĩnh không biết hèn, con hiểu chưa ?
- Con đã hiểu. Dân ta không hèn bố nhỉ…
Thứ năm ngày 18/2/2010
Trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật, người ta vẫn dùng đến hình ảnh con hổ. Trong một số lĩnh vực khác như quân sự, kinh tế, văn hóa... người ta cũng sử dụng hình tượng, biểu tượng, biểu trưng, phù hiệu, nhãn hiệu con hổ. Nhân dịp xuân Canh Dần - năm con hổ, chúng tôi xin sưu tầm một số câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ về hổ vẫn thường được lưu truyền trong dân gian.
Người xưa khuyên không nên đi vào chỗ nguy hiểm bằng câu: Đừng vuốt râu hùm hoặc Chớ thấy hùm ngủ vuốt râu / Đến khi hùm dậy đầu lâu chẳng còn. Người ta chê thói bất công: Mèo tha miếng thịt thì gào / hùm tha con lợn thì nào thấy ai, chê thói dựa dẫm: Cáo mượn oai hùm, tính keo kiệt: Ki ca ki cóp cho cọp nó xơi, sự giả dối: Bán chó, buôn hùm, mạnh mồm nhưng nhát gan: Miệng hùm gan sứa, tính chủ quan, nối giáo cho giặc: Thả hồ về rừng, cử chỉ xấu: Mặt nhăn như hổ cù, ca ngợi lòng dũng cảm, trí thông minh: Vào hang bắt cọp, Điệu hổ ly sơn, tinh thần đoàn kết: Cọp dữ không chống được sói bầy, sống có tình nghĩa: Hùm dữ chẳng ăn thịt con, sống có trước có sau: Hùm chết để da, người chết để tiếng , biết ân hận với tội lỗi: Hùm giết người hùm ngủ, người giết người thức năm canh, có cả câu thành ngữ ý ngược lại: Hùm nằm cho lợn liếm lông.
Ngoài ra một số thành ngữ, tục ngữ gốc Hán - Việt cũng nói về hổ như ca ngợi trí dũng cảm, thông minh: Bất nhập hổ huyệt yên đắc hổ tử (không vào hang hổ làm sao bắt được hổ con), sự liều lĩnh: Bạo hổ bằng hà (tay không đánh hổ, tay không vượt sông), lòng trắc ẩn, khó lường: Hoạ hổ họa hình nan họa cốt/Tri nhân tri diện bất tri tâm (vẽ con hổ thì dễ, vẽ xương hổ mới khó/nhìn thấy người, nhìn thấy mặt nhưng không hiểu được lương tâm người ta), thói cơ hội: Tọa sơn quan hổ đấu (Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau chờ cơ trục lợi), nối được chí cha ông: Hổ phụ sinh hổ tử (hổ bố đẻ hổ con), tính cách ăn uống của đàn ông và phụ nữ: Nam thực như hổ, nữ thực như miêu (đàn ông ăn khỏe như hổ, phụ nữ ăn yếu như mèo).
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã dùng nhiều câu có từ hùm như: Trướng hùm mở giữa trung quân, Râu hùm, hàm én, mày ngài, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn, Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này, Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi.
Hổ là loài thú dữ ăn thịt và chẳng bao giờ sống chung được với người nhưng trong đời sống tinh thần của con người nó lại rất gần gũi. Người ta thường sống trong lời ăn tiếng nói của dân gian mượn chuyện con hổ để răn mình và nhắc nhở người.
Ngoài ra người ta kể chuyện, vẽ tranh, tạc tượng về con hổ rất nhiều và khiến cho nó trở thành những nhân vật trung tâm của một số tác phẩm văn học nghệ thuật.

Nguồn: 24 h.com

Thứ bảy ngày 13/2/2010

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét