Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009

VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU

VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU



Hôm nay ba mốt tháng mười hai*
Chợ Nghệ hoàn công, chẳng còn dài
Ra giêng CANH DẦN, vào chợ mới
Vô tiền khoáng hậu, cũng chẳng sai

Bạn có thấy không, hãy còn dài
Vụ án cháy chợ, sẽ cháy ai ?
Bốn năm có lẻ, ba CÁO TRẠNG
Hỏi xem, tiền, hậu AI SỢ AI...


* Viết tại 11 PĐC hồi 18:37 PM ngày 31/12/2009(6-15-18-122005-2009)


Thứ Sáu, 01/01/2010 - 10:01 AM
Thăm nơi đầu nguồn sông Chảy ngày đầu xuân
(Dân trí) - Sông Chảy là một trong ba dòng sông lớn của vùng Tây Bắc và là nguồn thuỷ năng chủ yếu của nhà máy thuỷ điện Thác Bà (Yên Bái) - “đưá con đầu lòng” của ngành thuỷ điện miền Bắc đầu những năm 70 của thế kỷ trước”.
>> Vẻ kỳ thú “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt”
Dòng sông này hình thành từ vùng núi tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và chảy vào đất Việt của ta bắt đầu từ huyện Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc Hà thuộc tỉnh biên giới Lào Cai.



Đây là vùng đất hiểm trở bởi núi non trùng điệp cao chót vót và vực sông suối sâu hun hút. Nhưng nơi đây lại là địa danh đang thu hút khách du lịch quốc tế và giới trẻ miền xuôi bởi cảnh sắc thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ và bản sắc văn hoá độc đáo của đồng bào các dân tộc ít người vùng biên giới.



Xin giới thiệu chùm ảnh vùng đất và con người nơi đầu nguồn sông Chảy mà cộng tác viên Dân trí vừa mới ghi lại được trong chuyến đi đầu năm mới.





Phong cảnh đầu nguồn sông chảy Tả Ngải Chồ (Mường Khương)


Bánh phở ngô - món đặc sản của người Mông ở thượng nguồn sông Chảy.



Đi làm nương




Làng định canh định cư của người Mông ở xã Cán Cấu - Si Ma Cai đẹp như tranh vẽ.




Qua thượng nguồn sông Chảy ở Tả Gia Khâu (Mường Khương)




Đường lên thượng nguồn sông Chảy




Đầu nguồn sông Chảy nơi giáp ranh biên giới Việt Nam - Trung Quốc ở xã Tả Gia Khâu (Mường Khương).




Bánh dày rán - món ăn ngon của người Nùng ở xã Bản Mế (Si Ma Cai).




Đặc sản ớt khô




Món phở chua không thể thiếu trong các ngày chợ của bà con người Mông




Thác Hàm Rồng ở Mường Khương




Khách du lịch chọn mua thổ cẩm ở chợ Cán Cấu (Si Ma Cai)




Chợ trâu Cán Cấu (Si Ma Cai)




Một ngôi nhà cổ ở Mường Khương được xây từ năm 1942




Vẻ đẹp ruộng bậc thang Mường Khương




Nấu rượu ngô để kịp bán cho ngày chợ




Ra chợ phiên



Những thiếu nữ Nùng trong ngày chợ.


Phạm Ngọc Bằng
CHU THẦN CAO BÁ QUÁT ĐÃ ĐÓN THI SĨ THẾ MẠC LÊN TIÊN GIỚI
Nguyễn Xuân Diện


TNc: Nhà thơ Thế Mạc đã ra đi ngay trong ngày đầu năm 2010. Trannhuong.com xin chia buồn cùng tang quyến và cầu mong linh hồn ông lên cõi Nát bàn.

Thầy tôi, Thi sĩ Thế Mạc vừa tạ thế cách đây vài canh giờ. Ông tên thật là Kiều Thể, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1934. Quê quán làng Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, Sơn Tây. Xuất thân từ gia đình Nho học, cha của Thế Mạc là một nhà Nho tài tử có ảnh hưởng lớn đến phong cách của ông.
Thế Mạc tốt nghiệp khoa Văn khóa 1, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1959, cùng khóa với các GS. Nguyễn Huệ Chi và Phong Lê. Ra trường, ông xung phong đi Tây Bắc và hăm hở cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp trồng người ở miền ngược đầy gian khó. Ông dạy học tại các trường Trung học và Sư phạm tại miền núi Tây Bắc, Hòa Bình, Sơn Tây. Thế Mạc từng là cán bộ của Viện Nghiên cứu Giáo dục, Viện Giáo dục Dân tộc. Ông say mê nghiên cứu chữ dân tộc, làm thơ, viết kịch, bình luận văn học.
Bút danh Thế Mạc của ông bắt đầu có từ khi ông “hạ sơn” về dạy học ở Quốc Oai, nơi mà thi sĩ Chu Thần Cao Bá Quát làm Huấn đạo phủ Quốc Oai (như chức Trưởng phòng Giáo dục hiện nay). Họ Cao có bài ca trù “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”:

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu hư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng mệt
Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung và vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Ai thành thị mặc ai miền lâm tẩu
Gõ dịp lấy đọc câu Tương Tiến Tửu
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Làm chi cho mệt một đời.

Diễn nghĩa nôm na rằng:

Chuyện đời lên hay xuống, xin anh chớ hỏi
Kìa, giữa khói sóng thăm thẳm kia, có một con thuyền hư vô
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng và so với thực thì rất giống nhau
Chỉ có gió mát trên sông, cùng với trăng soi khắp núi
Kho trời là của chung, mà việc hưởng thụ thì là của riêng mình thôi
Sự đời mặc kệ ông Trời
Ai thành thị cũng kệ, Ai ở miền rừng núi cũng kệ
Hãy gõ nhịp đọc mấy câu Tương Tiến tửu (Sắp mời rượu) của Lý Bạch
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
(Anh thấy không nước sông Hoàng Hà từ trên trời đổ xuống)
Làm gì nữa, cho mệt đời!

Thế Mạc là hai từ được rút ra từ câu thơ “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn” của Chu Thần Cao Bá Quát.
Thế Mạc đọc nhiều. Ông đọc khắp triết học và văn học cổ kim đông tây, và chính điều đó tạo nên phong cách của ông – một học giả uyên bác lặng lẽ sống giữa cuộc đời. Nguyễn Quang Thiều đã viết về Thế Mạc rằng: “Ông là một người lạc vào thành phố nơi chúng ta sống trong bụi, tiếng gầm rú của xe cộ, những quán bia bừa bộn, sự mệt mỏi và nỗi cô độc. Thế Mạc cũng sống trong thành phố. Có thể ông cũng chấp nhận thành phố như chúng ta đang chấp nhận. Nhưng sự chấp nhận của hầu hết chúng ta mang gương mặt hòa bình. Sự chấp nhận của Thế Mạc nhìn thật tội nghiệp, thật lẻ loi và ngơ ngác”.
Ông đọc nhiều nhưng viết không nhiều, nhưng thơ ông là thơ của một nhà hiền triết vì sự đa nghĩa và hàm ẩn. Quê nhà của thi sĩ Thế Mạc nằm ngay dưới chân núi Chùa Tây Phương danh tiếng, nơi mà Cát Hồng đời Tấn sang luyện đan sa cầu trường sinh bất lão. Sông Đáy cứ chậm nguồn qua Phủ Quốc - nơi la liệt thập bát tú sơn (18 ngọn núi đẹp). Nơi đây có Sài Sơn, ngọn núi thiêng bên dưới có chùa Thầy thờ Thánh Từ Đạo Hạnh thần thông biến hiện giữa một vùng non nước hữu tình. Này là Tản Lĩnh – Đà Giang hùng vĩ. Và mây trắng xứ Đoài thành loài mây biểu tượng. Tất cả đã đi vào thơ Thế Mạc lâng lâng như khói như sương. “Thi ca là cuộc trò chuyện đơn độc của Thế Mạc (hữu hạn) với Thời gian (vô hạn)” (Nguyễn Quang Thiều). Thơ của Thế Mạc là thứ thơ mã hóa cảm xúc bằng các biểu tượng thơ, “biểu đạt bằng biểu tượng”(chữ của Dương Kiều Minh).
Với núi Tản sông Đà linh thiêng và hùng vĩ, hai bậc tiền bối là Tản Đà và Quang Dũng đã nắm bắt cái hồn, thì Thế Mạc đã nắm bắt được cái vía, cái linh của cỏ cây, đầm hồ, núi vực, đền đài…
Thế Mạc vào Hội Nhà văn năm 2005. Ông có các tác phẩm chính đã xuất bản: Thơ: Hồ (1994); Nguồn (1998); Trường ca Núi Tỏ, Phùng Hưng đánh hổ, Đồi Hổ Gầm, Thơ – Thế Mạc. Văn xuôi: Truyện Ao Vua; Truyện Đồng Mô; Nét quê. Kịch: Lò thúc mầm, Dưới chân núi Ba Vì, Tiếng đàn trên đỉnh núi, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, và các kịch ngắn khác. Lý luận phê bình: : Phê bình thơ, tiểu luận. Giải thưởng Văn học: Giải thưởng báo Văn nghệ năm 1960, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Trãi lần thứ nhất và thứ hai, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 1994.
Với tôi, tôi có may mắn được là học trò của ông. Và chính ông đã khai tâm cho tôi đi vào văn chương và học thuật. Tôi học cấp III ở Sơn Tây. Một ngôi trường khang trang nằm ngay bên hào nước của tòa thành cổ. Tòa thành cổ soi bóng trầm mặc trên hồ nước xanh lặng lẽ. Những tán bàng cành lá giao nhau che rợp những phố xá của một thị xã yên bình và che rợp suốt thời hoa niên của chúng tôi.
Và tôi mãi nhớ những kỷ niệm trong lớp học Văn của Thầy Thế Mạc. Trong một chiều muộn, nắng vàng lưng dậu, trong một ngõ nhỏ gần trường, thầy Thế Mạc kể cho chúng tôi nghe chuyện ông cụ thân sinh của thầy. Chuyện rằng, vào những đêm trăng thanh gió mát, ông cụ vẫn thường cùng các bạn văn chương và các đào kép ca trù xuống một con thuyền nhỏ để thưởng nguyệt và nghe hát. Và thế là, trong những đêm trăng vàng trên sông Đáy, trên một chiếc thuyền nan, các khách văn nghe những bài hát ả đào như Tỳ bà hành, Hồng Hồng Tuyết Tuyết, Tương tiến tửu…Thầy Thế Mạc còn minh họa cho chúng tôi nghe câu hát trong bài Tỳ Bà hành “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”, với chữ “khách” hát rất đặc biệt. Sau này, vào đại học, tôi biết đó là nghệ thuật hát ả đào. Và tôi đã để tâm tìm hiểu về ca trù (ả đào) từ đó. Thầy Thế Mạc còn dạy cho tôi những bài Thơ Đường (từ quyển sách dịch Đường thi gáy da đã sờn). Những dẫn dắt của Thầy Thế Mạc, đối với tôi đó là những bài học khai tâm về văn chương và học thuật. Tất cả đã được Thầy nhen nhóm lên trong tôi, từ thưở ban đầu tìm đến với văn chương.
Sau này, khi vào học khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội, năm nào tôi cũng viết một tiểu luận về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với thơ Việt. Tôi bắt đầu tìm hiểu về ca trù từ những năm cuối của Đại học. Tháng 3 năm 2007, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về ca trù và sau đó đã xuất bản thành sách Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Trong cuốn sách ấy, có lời tri ân của tôi đối với Thầy Thế Mạc: “Tôi xin tri ân những dẫn dắt khai mở đi vào học thuật và lòng yêu cổ văn, thơ Đường, và đặc biệt là ca trù từ 20 năm về trước của Thầy Thế Mạc (Kiều Thể), giáo viên dạy Văn ở thị xã Sơn Tây, cựu sinh viên Khoa Ngữ văn khóa 1, Đại học Tổng hợp Hà Nội”.
Thầy ơi, vậy là thầy bỏ tất cả mấy anh em chúng con: Chu Hồng Tiến, Nguyễn Xuân Diện, Đỗ Doãn Hoàng, Đỗ Doãn Phương, Vũ Lâm, Bế Kim Loan…Thầy bỏ tất cả bạn văn Xứ Đoài mà đáp bằng câu “thế sự thăng trầm quân mạc vấn” ư? Chỉ còn thêm mấy tiếng nữa là đến 1.1.2010 Thầy tròn 76 tuổi xuân mà!
Thương ôi! Xứ Đoài còn một nhà hiền triết mà nay đã hạc nội mây ngàn!
Chu Thần Cao Bá Quát nhất định ghé con thuyền hư huyễn đến đón thầy đi vào nơi khói sóng thăm thẳm rồi ư?

Hỏi không nói, chỉ tay về phía ấy.
Mây lâng lâng trôi dạt cuối trời xa…



Thứ sáu ngày 1/1/2010 ĐẦU NĂM NHỮNG CÂU NÓI ẤN TƯỢNG
Trích VNN.VN



TNc; Đầu năm hai ý kiến tôi cho là ấn tượng. Ý kiến thứ nhất của ông Nguyễn Trung cho rằng CCGD cần bắt đầu từ chỗ không nói dối. Đây là một việc khó vì quan chức và người lớn đã nói dối quen miệng rồi. Ý kiến thứ hai của Thủ tướng về việc có ý kiến khác nhau và minh bạch thông tin cũng khó vì chúng ta chưa có thói quen. Xưa nay nơi nào không biết nghe ý kiến khác mình đều là bá quyền, vua chúa cả...Nhưng năm mới chúng ta hy vọng sẽ tốt đẹp...


Chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình. Xây dựng một chế độ chính trị đồng nghĩa với tổ quốc là điều nhất thiết phải hướng tới.

Cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ chỗ không nói dối

Chuyển sang giai đoạn phát triển mới nhất thiết phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí rộng rãi trong cả nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng nào, tiêu chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.
Phương án cải cách định lựa chọn nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo, hình thành và phát huy con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.
Sự nghiệp cải cách này cũng phải tiến hành từng bước và liên tục với một kế hoạch được thiết kế sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc của phát triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020 và sau nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội được.
Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng ngành giáo dục và đào tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao gồm và liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách này trong tình hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không ăn nhằm gì và có quá nhiều trường hợp là bị thải loại và thua bằng giả.
Thực tế tại các quốc gia cũng cho thấy không thể tiến hành cải cách này một cách đích thực nếu thể chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy chịu khuất phục những giá trị ngược lại với những mục tiêu một nền giáo dục và đào tạo tiên tiến phải theo đuổi.
Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong thập kỷ 2020, sẽ quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ không phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí có thể nói sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ chỗ không nói dối!
http://tuanvietnam.net/2009-12-27-xay-che-do-chinh-tri-dong-nghia-voi-to-quoc-

Thông điệp 2010 của Thủ tướng

Không một cơ chế, chính sách nào có thể bao quát mọi hiện tượng kinh tế - xã hội. Vì vậy, có những ý kiến khác nhau về một chính sách cụ thể nào đó cũng là điều bình thường. Quan trọng nhất là khi đã quyết định, phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện có kết quả các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu đã xác định. Phải công khai và minh bạch thông tin, làm rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/200912/Thong-diep-2010-cua-Thu-tuong-887144/

Thứ năm ngày 31/12/2009 Đà Lạt:
Bức tranh hoa ướp khô lớn nhất Việt Nam
(Dân trí) - Sáng 31/12, một bức tranh sơn dầu đặc biệt được gắn kết 1.000 bông hoa ướp khô, do shop hoa Hoatuoiuop.com tạo nên, vừa được ra mắt tại TP Đà Lạt.
>> Ra mắt tượng Phật kết bằng 600.000 bông hoa bất tử

Bức tranh bằng hoa tươi ướp lớn nhất Việt Nam (ảnh: Hà Huy Vũ)


Bức tranh được Hội đồng xác lập kỷ lục Guiness Việt Nam đo đạc và kiểm định là bức tranh hoa tươi ướp lớn nhất, với số hoa nhiều nhất Việt Nam.



Tranh được kết bằng 1.000 bông hoa hồng tượng trưng cho 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Dựa trên bức tranh sơn dầu về TP Đà Lạt do họa sĩ Đoàn Hữu Trí phác họa với hồ Xuân Hương, nhà hàng Thủy Tạ, nhà thờ Con Gà cùng mây nước cao nguyên hữu tình, các nghệ nhân đã tìm tòi, gắn kết thành một bức tranh về Đà Lạt dài 2,7m, rộng 2,4m cùng các khung tranh bằng hoa nhỏ kèm theo.



Ý tưởng về bức tranh ra đời từ tháng 9/2009 và được 4 người thiết kế thi công trong 30 ngày để chào mừng Festival hoa Đà Lạt.



Hà Huy VũThứ Sáu, 01/01/2010, 08:49

Chào năm mới, chào hy vọng

TP - Thập niên đầu tiên của thiên kỷ mới đã đi qua. Loài người lại được cộng thêm nhiều thành tựu. Những đổi thay mang lại tiện ích cho con người, về công nghệ thông tin, về khoa học kỹ thuật, về thành tựu y tế...

Một thập niên vừa đi qua cũng để lại những xót xa, hy vọng.

Từ vụ khủng bố kinh hoàng ngày 11-9-2001 đến vụ khủng bố đánh bom máy bay hụt vào ngày Giáng sinh 25-12-2009 vừa qua, mất cả thập niên mà cơ hồ con người chưa được bước nào qua bóng ma bạo lực, khủng bố.

Đi qua một vụ mùa mà không thu trọn những hoa trái bình yên, xót xa là vậy. Nhưng trong xót xa lại nảy mầm hy vọng. Khi con người buộc phải nghĩ suy thấu đáo hơn về cách hành xử, về bạo lực, hận thù và về gói giải pháp trí tuệ, thấu hiểu, và lòng từ bi.

Chiến tranh vùng Vịnh, chiến tranh Afghanistan. Kết thúc một thập niên vẫn còn đó chiến tranh. Xót xa là vậy. Nhưng giải Nobel Hoà bình năm qua được trao cho Tổng thống chỉ huy chiến tranh lại hàm chứa niềm hy vọng đầy khích lệ về một cách ứng xử mới có hiệu quả cho Hòa bình đang còn ở phía trước.

Biến đổi khí hậu, hội nghị thế giới không thành công. Trong nỗi xót xa Trái Đất chưa được mời đến bàn hội nghị, là niềm hy vọng về nhận thức mới của con người, quyết liệt hơn, về kinh tế học biến đổi khí hậu, về lối sống xanh, hàng hóa xanh lan tỏa rộng khắp toàn cầu.

Một thập niên với thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt. Cùng với xót xa về sự sống, về những số phận không may, là niềm hy vọng về tình người, về trách nhiệm, về sự kết nối không biên giới giữa những con người.

Suy thoái kinh tế, xót xa về một bước lùi của đời sống, lại là niềm hy vọng mới, khi sự bất toàn, khuyết tật của hoạt động kinh tế ngày được hoàn thiện hơn qua kinh nghiệm khủng hoảng.

Biển Đông cuộn sóng. Chúng ta có thể xót xa cho tình hữu nghị lân bang, nhưng cũng thêm hy vọng về sự tỉnh thức, về sự xây dựng thế trận, trước hết là thế trận lòng dân. Chúng ta khẳng định ở sách trời nhưng cũng khẳng định qua việc phân giới cắm mốc một cách khoa học, rạch ròi.

Vấn đề lương thưởng, lộ ra những phi lý, bất công. Chúng ta có thể xót xa trước khoảng cách giàu nghèo trong phân chia tài sản xã hội. Nhưng chúng ta cũng có quyền hy vọng vào việc khắc phục những kẽ hở có thể bị lợi dụng, để xã hội hoàn thiện hơn qua mỗi ngày. Hy vọng vào một cơ chế giám sát theo kịp thực tiễn phát triển mỗi ngày.

Từ những sự kiện lớn nhỏ, từ ngoài nước, trong nước, bên cạnh xót xa là hy vọng. Ngay cả sự kiện băng hà của ông hoàng nhạc pop Michael Jackson. Xót xa cho đời người ngắn hạn. Xót xa trước bất công của công chúng với thần tượng, trước đố kỵ tài năng, trước sự cô độc và bất hạnh của ngôi sao.

Dư ba mạnh mẽ sau cái chết của anh lại là niềm hy vọng về người đời biết tự vấn, biết tự nhìn lại mình với những cách ứng xử lớn khôn hơn.

Chúng ta không ảo tưởng về một cánh đồng chỉ toàn hoa trái. Ngay cả trong xót xa cũng tìm thấy hy vọng. Năm mới, thập niên mới, chúng ta tin rằng những hy vọng ấy sẽ đâm chồi nẩy lộc khi đã được chưng cất từ những xót xa của vụ mùa xưa cũ.

Hy vọng tràn lên đồng mênh mông (Thơ Tố Hữu)

Chào 2010, chào hy vọng!

Đoàn Công Lê HuyThứ Sáu, 01/01/2010, 08:46

Năm dân nguyện

TP - “Tất cả ý kiến, kiến nghị của cử tri đều được chúng tôi xem xét, phân loại và chuyển đến cơ quan chức năng xem xét, giải quyết. Trong đó, có khá nhiều vấn đề dân nguyện đã được tiếp thu...”.

Ủy viên Thường vụ Quốc hội (QH), Trưởng ban Dân nguyện Trần Thế Vượng, bắt đầu câu chuyện với phóng viên Tiền Phong, về một năm dân nguyện như thế.


Ngày 6-11-2009, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh về thăm và chia sẻ với người dân Phú Yên sau cơn bão số 11 - Ảnh: TTXVN

Tiến thêm một bước

Ông Trần Thế Vượng nói: Công tác dân nguyện của nước ta năm 2009 đã được đổi mới và tiến thêm một bước.

Nếu như trước đây, tại các kỳ họp QH, ý kiến kiến nghị của cử tri được trình bày gần cuối kỳ họp (trước khi thực hiện chất vấn), thì từ kỳ họp đầu năm 2009 (kỳ họp thứ 5), báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước được báo cáo ngay phiên khai mạc, sau khi Thủ tướng trình bày báo cáo về tình hình kinh - tế xã hội.

Ngoài ra, tại kỳ họp cuối năm vừa rồi, lần đầu tiên, QH có báo cáo về kết quả giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri của các cơ quan nhà nước. Đây thực sự là bước tiến, thể hiện những vấn đề dân nguyện đã được các cơ quan thực sự coi trọng.


Ông Trần Thế Vượng - Ảnh: Hồng Vĩnh
Nhưng việc đó cũng chỉ là làm theo quy định của pháp luật, thưa ông?

Đúng là như vậy, việc giám sát giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri đã có quy định, nhưng chúng ta chưa làm được. Năm 2009, Ủy ban Thường vụ QH đã quyết tâm thực hiện và đã làm được.

Quốc hội là cơ quan dân cử, dân ủy nhiệm việc thực hiện quyền làm chủ cho đại biểu QH, thì ngược lại QH, đại biểu QH phải có trách nhiệm trước ý kiến, kiến nghị của cử tri.

Những vấn đề gì dân nguyện đã giải quyết được, những việc gì chưa, đều phải trả lời cho cử tri biết. Thậm chí những vấn đề đặc biệt lớn, vĩ mô, chiến lược mà chưa thể giải quyết ngay được thì cũng phải có trách nhiệm trả lời.

Việc làm đó, vừa thể hiện sự tôn trọng và trách nhiệm với cử tri, vừa cung cấp thêm thông tin cho chính các đại biểu QH, trước khi bước vào thảo luận về kinh tế-xã hội và thực hiện chất vấn.

Là người phụ trách công tác dân nguyện của QH, ông quan tâm đến vấn đề gì dân kiến nghị trong năm qua?

Theo quy định, trước và sau mỗi kỳ họp, đại biểu QH đều tiếp xúc cử tri. Một năm qua, QH đã tập hợp được hàng ngàn ý kiến, kiến nghị của cử tri, liên quan đến nhiều vấn đề, từ KT-XH, tổ chức bộ máy Nhà nước, đến hoạt động lập pháp, giám sát, những vấn đề quan trọng của đất nước, hoạt động quản lý điều hành đất nước của Chính phủ.

Ngay trong quản lý điều hành, từ vấn đề cụ thể như quản lý đất đai, quản lý tài sản công của Nhà nước, đến vấn đề chống tham nhũng… Theo tôi, đó đều là những vấn đề thời sự, mà các cơ quan có trách nhiệm phải giải quyết.

Trung thực

Thưa ông, người dân rất băn khoăn, không biết những ý kiến, kiến nghị của mình với đại biểu QH lâu nay có thực sự được quan tâm, giải quyết?

“ Lâu nay, có người hiểu dân nguyện gồm cả ý kiến, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân.

Tôi hiểu công tác dân nguyện là làm thế nào để tập hợp được trí tuệ và phát huy được ý thức công dân trong việc đóng góp xây dựng đất nước.

Đồng thời, khi đã nhận được đóng góp của người dân, thì cơ quan dân nguyện phải ghi nhận, phân loại, đánh giá và tiếp thu được những đóng góp ấy, để xây dựng hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Để rồi, bộ máy Nhà nước trở lại phục vụ nhân dân tốt hơn, hiệu quả hơn”.

Điều này, cử tri hoàn toàn yên tâm, những ý kiến của dân đều được tập hợp, phân loại và xử lý.

Một năm, đại biểu QH có 4 lần tiếp xúc cử tri (trước và sau mỗi kỳ họp, đại biểu QH đều phải đi tiếp xúc cử tri). Tại đây, khi cử tri có ý kiến, kiến nghị, đại biểu QH hoặc nhóm đại biểu QH có trách nhiệm ghi chép, lập thành văn bản.

Sau đó, chuyển những ý kiến, kiến nghị đó cho Văn phòng đoàn đại biểu QH, và Văn phòng tổng hợp lại các ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương đó, gửi cho Ủy ban Thường vụ QH.

Sau khi tập hợp 63 báo cáo của 63 tỉnh, thành, Ban Dân nguyện có trách nhiệm giúp Ủy ban Thường vụ QH tổng hợp các kiến nghị cử tri cả nước, rồi phối hợp cơ quan chức năng để phân loại.

Ý kiến, kiến nghị thuộc chức năng giải quyết của cơ quan nào thì chúng tôi chuyển đến cơ quan đó xem xét, giải quyết.

Và khi cơ quan có trách nhiệm có văn bản có trả lời rồi, thì phải gửi về Đoàn ĐBQH, nơi mà kỳ họp trước, khi tiếp xúc cử tri họ nêu ra. Và ĐBQH, khi anh đi tiếp xúc lần sau, phải báo cáo cho cử tri về những kiến nghị của họ đã được giải quyết như thế nào.

Như vậy, cử tri nào có ý kiến cũng nhận được trả lời, thưa ông?

Hiện chúng tôi chưa làm được việc này. Bởi cơ chế để thông tin đến cử tri như thế nào, hiện còn vướng. Nói là gửi cho đoàn đại biểu QH, để khi đi tiếp xúc cử tri thì báo cáo, nhưng đại biểu QH nay tiếp xúc cử tri ở xã này, mai xã khác, thành thử, đại biểu QH không gặp lại được cử tri để báo cáo.

Sao mình không gửi văn bản trả lời cho cử tri, thưa ông?

Đây cũng là vấn đề Ủy ban Thường vụ QH đang bàn cơ chế để thực hiện. Nếu gửi văn bản thì gửi cho ai? Theo tôi, tới đây có thể gửi cho UBND xã. Sau đó, xã sẽ có trách nhiệm thông báo công khai trên hệ thống thông tin để dân biết.

Luật hóa ý kiến

Thưa ông, lâu nay, những kiến nghị của cử tri có nhiều ý kiến được tiếp thu, giải quyết không?

Cái này mình chưa có thống kê, tuy nhiên, có khá nhiều vấn đề cử tri kiến nghị đã được cơ quan chức năng điều chỉnh, tiếp thu. Thậm chí, có những ý kiến, kiến nghị của cử tri đã được QH xem xét, đưa vào luật.

Ví dụ, trước khi có Luật Người cao tuổi, chúng ta quy định, những cụ già từ 90 tuổi trở lên, thì được hưởng trợ cấp của Nhà nước. Khi triển khai, người dân thấy bất cập, vì tuổi thọ của người Việt không cao như một số nước phát triển, nên số cụ thọ 90 trở lên không nhiều, vì vậy cử tri kiến nghị chỉ nên quy định tuổi hưởng trợ cấp từ 80 trở lên. Vừa rồi, QH thông qua Luật Người cao tuổi đã tiếp thu...

Tất nhiên, cũng có những ý kiến, kiến nghị của cử tri không thể giải quyết ngay được, vì là vấn đề khó, hoặc vấn đề chưa chín muồi.

Nâng tầm tổ chức

Với bộ máy tổ chức dân nguyện như hiện nay có đáp ứng được yêu cầu, khi mà quyền làm chủ của dân ngày càng được coi trọng, thưa ông?

Tôi cũng đã tìm hiểu, suy nghĩ, nghiên cứu, kể cả ở nước ngoài, thấy vấn đề dân nguyện được các nước rất coi trọng. Ví dụ như ở Cộng hòa Séc, Ủy ban dân nguyện là cơ quan được quy định trong Hiến pháp.

Còn ở ta, Hiến pháp đã nói rõ tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, và nhân dân thực hiện quyền lực của mình qua QH và HĐND.

Quốc hội và HĐND do cử tri bầu ra. Cử tri tín nhiệm bầu ra đại biểu QH, đồng nghĩa đã ủy thác cho đại biểu thực hiện quyền lực nhà nước thay mình. Vì thế, sau khi bầu ra đại biểu, thì anh phải giữ mối liên hệ để người dân kiểm soát, xem anh đã thực thi quyền lực mà tôi ủy thác như thế nào.

Bởi vậy, phải tổ chức như thế nào để cơ quan dân nguyện giúp QH lắng nghe được ý kiến, nguyện vọng của người dân, để khi QH thực hiện các quyền lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đều thể hiện được ý chí, nguyện vọng của dân.

Bởi vậy, theo tôi, QH cần lập Ủy ban Dân nguyện, chứ không phải là Ban Dân nguyện do Ủy ban Thường vụ QH lập ra như hiện nay.

Ủy ban này chuyên xử lý ý kiến, kiến nghị của cử tri, thực hiện thẩm tra dự án luật, và giám sát những vấn đề thuộc lĩnh vực dân nguyện. Và có thể thực hiện cả những cuộc điều tra, thăm dò dư luận, đo lòng dân chẳng hạn...Như thế, hoạt động sẽ có hiệu quả hơn.

Thưa ông, ngay cả quy trình giải quyết những vấn đề dân nguyện cũng cần được luật hóa. Như vậy, ý kiến, kiến nghị của người dân sẽ được cơ quan chức năng giải quyết hiệu quả hơn?

Những quy định giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri hiện đã có nhưng nằm rải rác và phân tán ở khá nhiều văn bản, với những cấp độ khác nhau, như: quy định trong Nội quy kỳ họp, Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban TVQH với Mặt trận Tổ quốc...

Tuy nhiên, do phân tán như vậy nên không tiện khi áp dụng, thậm chí khó tránh khỏi sự chồng chéo. Nên theo tôi, sắp tới, có thể quy định đầy đủ thành một chương trong Luật Tổ chức QH, hoặc nên có một văn bản riêng, có thể chưa thành luật thì ban hành một nghị quyết của QH.

Cảm ơn ông.

Bá Kiên
Thực hiện

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét