Chuyện phi lý
Cập nhật lúc 09h46, ngày 15/12/2009
KTĐT - Trong lúc trà dư tửu hậu với nhau, mấy anh bạn của tôi thường hay hỏi: Sao ở nước mình cứ cái gì chống, cái gì muốn giảm thì đều tăng lên?
Tôi bảo họ hãy nói rõ hơn câu hỏi đó, họ bảo: Ông xem ở xứ ta cứ cái gì cấm làm thì họ lại làm nhiều hơn. Chẳng hạn, cấm buôn bán ma túy, thì số vụ buôn bán ma túy đều tăng lên qua từng năm! Cấm mại dâm thì mại dâm phát triển ngày một nhiều và ngày một tinh vi hơn, ngày một khó phát hiện hơn! Cấm đổ rác bừa bãi thì rác tràn ra phố, ra đường nhiều hơn! Cấm vượt đèn đỏ thì vào ngày chủ nhật vẫn vô số người cho xe chạy qua các ngã ba, nga tư khi đèn đỏ. Họ lại còn ngang nhiên bóp còi inh ỏi để bắt những người đi đúng tuyến phải tránh họ! Cấm đi ngược chiều thì họ vẫn đi ngược chiều mà thường đi về phía bên trái để tránh xe đi ngược chiều va phải. Ngay cả những nơi ghi cấm đái bậy mà khi ta đi qua vẫn thấy sặc sụa mùi khai, hôi thối!
Rồi đến chuyện chống cũng vậy. Chính phủ đưa ra khẩu hiệu chống tham nhũng chẳng hạn. Nhưng càng chống thì xem ra các vụ tham nhũng lại càng nhiều, càng lớn. Ngay cả các vụ lương bổng của mấy ông lãnh đạo, tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước hoặc Jetstar, mỗi ông mỗi tháng trên 80 triệu đồng thì cũng là một hình thức tham nhũng chứ. Các ông ấy tài giỏi gì hơn người mà đút túi mỗi năm cả tỷ đồng như vậy? Rồi chuyện chống hàng giả, nhưng vẫn thấy ở đâu cũng có hàng giả. Chống buôn lậu qua biên giới thì vẫn ùn ùn đội quân cửu vạn, người thì dùng xe gắn máy chở hàng, người thì mang vác, kẻ thì nhét hàng vào bên trong quần áo, đến nỗi trông như người ở trên mặt trăng vậy. Họ vẫn vượt biên chuyển hàng qua đường mòn biên giới. Chống phá rừng thì rừng ngày càng bị phá tàn bạo hơn. Lâm tặc lộng hành, đánh đập cả kiểm lâm!
Đến chuyện giảm cũng thế. Trên càng yêu cầu giảm biên chế, thì biên chế các cơ quan càng tăng. Yêu cầu giảm chi tiêu lãng phí thì càng chi tiêu lãng phí hơn. Ví như mấy ông qua tỉnh, qua huyện, mua ô tô vượt giá quy định; xây trụ sở vượt quá diện tích cho phép; lắp đặt trang thiết bị ở các phòng làm việc quá xịn, toàn đồ ngoại, nên vượt dự toán rất nhiều. Tất cả chỉ người dân đóng thuế phải chịu!
Ở các nước phát triển Âu - Mỹ, người ta không có tình trạng như vừa kể trên. Cái gì đã cấm là không được làm. Nếu vi phạm thì bị phạt rất nặng. Chẳng hạn, cấm đi ngược chiều thì dứt khoát không ai đi ngược chiều, vì như vậy trước hết là gây nguy hiểm đến tính mạng của họ, sau nữa là bị phạt rất nặng có thể ở mức phạt vài trăm đô la và còn bị cấm lái xe nữa. Đã chống tham nhũng thì chống đến cùng, với những biệnpháp công khai, minh bạch đủ thứ bản khai lưu trong máy tính, từ tiền lương đến các loại thu nhập khác và tài sản trong nhà. Nếu với mức tiền lương bình thường thì bao nhiêu năm mới có đủ tiền mua ô tô. Hoặc nếu có ai cho thì truy đến cùng xem người cho ấy lấy tiền ở đâu ra để cho. Tất cả đều phải giải trình trước cơ quan thuế để làm rõ các khoản thu nhập và tất nhiênphải làm đủ nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân.
Ở xứ ta, chúng ta chưa làm được mọi chuyện công khai, minh bạch và lưu các bản khai của cải, lương bổng và các loại thu nhập khác trong máy tính, nên mới có chuyện, có những sở ngành liên quan đến đầu tư xây dựng, cấp phép... số người có ô tô chiếm tới 2/3 số nhân viên toàn cơ quan. Thử hỏi, với tiền lương như hiện tại, chỉ việc nuôi vợ con đã vừa hết thì lấy tiền đâu mua ô tô? Chỉ có thể giải thích hoặc là có người cho hoặc là tham nhũng, vòi vĩnh nhà đầu tư hoặc rút ruột các công trình xây dựng.
Sở dĩ có chuyện nghịch lý như vậy là vì tuy đề ra việc cấm, chống, giảm nhưng chưa có đủ biện pháp để thực hiện các việc đó. Hoặc là các biện pháp đó không "thiêng" hoặc còn nhiều "lỗ hổng" khác chưa bịt chặt. Chính vì vậy, mà nói cấm vẫn chưa cấm được, nói chống vẫn chưa chống được, nói giảm vẫn chưa giảm được.
Trong chuyện này, vấn đề ý thức công dân và lương tri của mọi người phải được đề cao. Nếu ai cũng có ý thức thực hiện việc cấm, chống và giảm, và ai cũng có lương tâm trong sáng, biết phải làm đúng luật, đúng với lương tâm của mình thì việc thực hiện các chủ trương trên mới có thể trở thành hiện thực.
N.N.K
Hôm nay ngày CN 20/12/2009, một ngày rét 12-17o, bây giờ là 8:41, mình đã hoàn thành chương trình tổng vệ sinh nhân ngày CN, giúp bầm sinh hoạt bình thường, lấy quà cho MIC từ Xim, hôm nay họ ăn khỏe nên hơi ít, MIC thông cảm, lát nữa bù = cơm...mình viết vài sự kiện 2009 dể nhớ như sau:
SỰ KIỆN 2009
Một năm đầy sự kiện
Cùng ĐỒNG BỌN, ra tòa
Phương Xim, mua được nhà
Chị tôi, KHÔNG còn nữa...
Thiết bị nhà, thay, chữa
Từ điện, nước, ti vi
Cổng to khỏe, nhất nhì
Va “ĐOÀN TÀU”, goong bật...
Soài chín, rụng nhiều nhất
BOP của tôi, qua đời
Sau CHỊ, bốn ngày thôi
Làm SẦU RIÊNG, nảy nở
Họ VŨ có SỰ cố
Buồn... và RỐI tơ lòng
Rồi mọi việc, cũng xong
Cả Sơn Tây, BÌNH ĐỊNH
Bên họ DƯƠNG bàn tính
Đưa ông NGỌC về quê
Một hai tám, bán đi
Hậu An, nơi ở mới...
Và niềm vui, cũng TỚI
Cháu TIẾN MINH ra đời
Nhất bà CỌN, mẹ tôi
Đàng hoàng, LÊN chức CỤ
Viết vài lời ôn cũ
LÀ để đón năm MƯỜI
Không chỉ có ĐẤT, TRỜI
có THÁNH NHÂN phù trợ...
* Viết hồi 9:15 AM ngày 20/12/2009 tại 11 PĐC; tg Vũ Tản Hồng.
Báo chí hiện đại ngày càng lá cải (kỳ 2)
Tác giả: ALEX S. JONES
Bài đã được xuất bản.: 2 giờ trước
• In
• Email
• Thảo luận
TRONG MỤC NÀY
• Lá cải hóa - xu thế báo động của báo chí hiện đại (kỳ 1)
• Châu chấu, Blog và quảng bá du lịch quốc gia
• Italia dưới đế chế truyền thông của Berlusconi (Phần 1)
(Đọc thêm...)
Dòng headline khổng lồ trên bìa một số People năm 2006 in hàng chữ: “Tôi đang yêu” bên cạnh ảnh Jessica Simpson, nhân vật ưa thích của báo chí lá cải. Nhưng về sau, té ra câu đó không phải của Jessica mà là của một “người bạn” ẩn danh, người này bảo rằng Jessica đã nói thế.
Báo lá cải: nhằm vào lợi nhuận tối đa
Báo chí lá cải được Entman định nghĩa là loại báo chí đặt lợi nhuận lên làm ưu tiên hàng đầu. Đó là đặc điểm phân biệt báo lá cải với báo truyền thống. Các tờ báo lá cải khác nhau ở mức độ chúng tuân thủ 4 tiêu chuẩn chính xác, công bằng, giám sát chính phủ, và độc lập. Nhưng ở khía cạnh chính yếu này – lợi nhuận – thì tất cả các cơ quan báo chí lá cải đều thống nhất: Đối với họ, tối đa hóa lợi nhuận là mối quan tâm số một.
Với định nghĩa đó, báo lá cải bao gồm cả mục tin tức trên truyền hình địa phương, nơi các quyết định về nội dung từ lâu đã dựa hầu như hoàn toàn vào việc xem xem cái gì sẽ thu hút nhiều khán giả nhất, thay vì vào việc xác định tin gì là quan trọng, cần đưa.
Hai thập kỷ trước, các đài truyền hình địa phương – hầu hết thuộc sở hữu của địa phương - cũng mập mờ đóng vai trò giám sát như bất kỳ tờ báo nào khác. Họ sản xuất chương trình về các vấn đề chính sách ở địa phương, và không bị sa vào sự thèm khát tới kiệt sức của truyền hình đối với hành động và hình ảnh đẹp mắt. Nhưng họ không làm ra lợi nhuận tối đa, bởi vì khán giả của họ khi đó không nhiều như khi họ cung cấp những thể loại chương trình khác.
Đến khi địa phương nhường lại cho quyền sở hữu đài truyền hình cho tư nhân, các ưu tiên lập tức thay đổi, và tin truyền hình địa phương giờ đây rời khỏi hàng ngũ các cơ quan thông tin truyền thống để trở thành lá cải, bởi vì nhà đài đã đặt lợi nhuận lên hàng đầu.
Thế giới đã vận hành đơn giản như thế. Các đài truyền hình thuộc sở hữu địa phương được bán đi với giá ngang mức lợi nhuận chúng có thể mang lại, khiến cho chúng trở nên rất đắt. Hầu như không mấy ai trong chúng ta lại vị tha, quên mình đến mức có thể bán hàng với giá thấp hơn giá đặt mua cao nhất.
Người mua còn sẵn sàng trả thêm nữa, bởi họ biết các chủ sở hữu trước đó đã không tối đa hóa được lợi nhuận. Những kênh truyền hình địa phương này là các mỏ vàng tiềm năng và chúng đã bị điều hành bởi những người sẵn lòng để phần lớn vàng đó nằm lại trong lòng đất. Chúng chỉ thu về “lợi nhuận tâm lý” của việc được làm người chủ sở hữu một cơ quan ngôn luận hùng mạnh và có ảnh hưởng ở địa phương, với các chương trình làm họ tự hào về chất lượng, các giải thưởng báo chí nâng cao uy tín của họ.
Nhưng khi những người tài ba này quyết định tiền tệ hóa uy tín của họ, họ gần như luôn luôn muốn nhận về những đồng đôla. Số đôla đó đến từ những người mua đang sẵn sàng trả thêm bởi họ có dự định khai thác từng vỉa vàng dưới mỏ. Trong bối cảnh đó, người ta kỳ vọng ngành công nghiệp bị mua lại sẽ làm ra tiền để tự trả cho nó, và nếu giá mua cao, thì áp lực sản xuất ra lợi nhuận cũng sẽ cao.
Nhờ thế, các chủ sở hữu của kênh truyền hình giàu lên, người mua kênh còn giàu hơn, còn cộng đồng thì bị thua thiệt, ở chỗ hoạt động đưa tin trở nên rất tốn kém, nhiều chương trình truyền hình hóa ra thừa, vì quá đắt.
Còn tệ hại hơn thế nữa, là chuyện nội dung tin tức trên các kênh truyền hình địa phương biến đổi. Công thức bây giờ là một hỗn hợp các loại tin về tội ác, tai nạn, cháy nhà và những thứ linh tinh khác, tiếp theo là thời tiết, thể thao, và các phóng sự vui mắt.
Vào thập niên trước, chương trình phát sóng của truyền hình địa phương còn được pha thêm những mẩu tin sức khỏe - đôi khi đó là những đoạn phim do các nhà sản xuất thuốc cung cấp, xem thì giống như tin nhưng thật ra là quảng cáo trá hình.
Ở các thành phố lớn nhưng là những thị trường nhỏ, truyền hình địa phương phát sóng đủ thứ, chỉ trừ những tin tức quan trọng liên quan tới chính trị và chính sách. Khi nào không thể phớt lờ chính phủ được nữa thì họ mới hỏi đến vài chuyên gia. Phóng viên thì không được tổ chức để làm tin loại đó. Mỗi người ở bộ phận tin tức chỉ quan tâm tới các nhiệm vụ chung chung; và phải làm việc hết mình trong phần thời gian ngắn ngủi họ được cho phép, với rất ít hoặc không có kiến thức nền.
Thế nên rất thường xuyên – với các tin tức quan trọng – truyền hình copy luôn những gì báo chí địa phương đã viết. Tin về bầu cử cũng thế. Các phóng viên truyền hình xinh trai đẹp gái, mặt mũi tươi tỉnh, hầu như không hiểu gì về chính trị, được giao nhiệm vụ làm tin, và kết quả thường xuyên là các bản tin hời hợt và nhạt nhẽo, như chúng ta có thể đoán trước.
Điều này không có nghĩa là truyền hình địa phương không có mong muốn đưa tin chính trị một cách chính xác và công bằng. Họ cũng tuân thủ hai trong 5 tiêu chuẩn của báo chí truyền thống. Nhưng, họ không tập trung vào chức năng giám sát, buộc chính phủ phải giải trình, cũng như họ không đưa ra những quyết định triển khai tin này tin kia mà không căn cứ vào số người xem, và quan trọng nhất, vào mối ưu tiên hàng đầu là tối đa hóa lợi nhuận.
Ngoài các kênh truyền hình địa phương, trong danh mục báo chí lá cải còn có những cơ quan thông tin khác. Đầu tiên phải kể tới National Enquirer và những người anh em của nó, sau đó là tạp chí People với một lô những kẻ bắt chước nó - điều này đang ngày càng gây sức ép lên People, buộc nó phải từ bỏ một số nguyên tắc mà tờ tạp chí từng đặt ra trong nghề cung cấp tin tức ngồi lê đôi mách.
Ví dụ, dòng headline khổng lồ trên bìa một số People năm 2006 in hàng chữ: “Tôi đang yêu” bên cạnh ảnh Jessica Simpson, nhân vật ưa thích của báo chí lá cả. Nhưng về sau, té ra câu đó không phải của Jesssica mà là của một “người bạn” ẩn danh, người này bảo rằng Jesssica đã nói thế. Những trang bìa với nguồn trích dẫn mù mờ như thế vốn rất điển hình cho các đối thủ của People chứ không phải phong cách của People.
Báo chí lá cải có xu hướng vui vẻ hơn nhiều so với báo chí truyền thống. Chúng nhằm vào việc làm người đọc vui vẻ, giống như kem sinh ra để làm đồ ăn. Và cũng như kem, chúng cung cấp một số chất bổ dưỡng, phần nhiều là từ các mẩu tin điện tín ngăn ngắn.
Nhưng mỗi khi bàn đến những tin tức chính trị, tin liên quan tới trách nhiệm giải trình của chính phủ, thì chúng là những con đỉa, co vòi lại, dành nguồn lực riêng cho các câu chuyện vui vui đặc sắc, những thứ làm vừa lòng đám đông.
Khi Thống đốc bang New York, Eliot Spitzer, bị bắt quả tang đang gần gũi một cô điếm, hai tờ lá cải của thành phố New York là New York Post và Daily News đã rất vui vẻ rót tiền vào “làm đậm” từng chi tiết thú vị, nhỏ nhặt nhất. Sự quan tâm của họ tới việc đưa tin về những vấn đề chính sách công quan trọng sống còn với người dân New York thì ít sôi sục hơn thế nhiều.
Theo Entman, các cơ quan báo lá cải đặt lợi nhuận lên hàng đầu, và sự vui nhộn, tính giải trí ở vị trí thứ hai. Đứng hàng thứ ba, ở cách đó khá xa, là ảnh hưởng của tờ báo lên chính sách công.
Nhà báo Bill O’Reilly tự nhận mình là một nhà giám sát và chắc chắn ông có ý định gây ảnh hưởng lên chính sách. Tuy nhiên, Entman xếp ông này vào đội ngũ báo chí lá cải, bởi vì nhìn bề ngoài, có vẻ như O’Reilly coi tính phổ cập – cách nói tắt của “nhiều người xem” và “nhiều lợi nhuận” – và giải trí như là các mục tiêu đầu tiên của mình. Tôi thì có xu hướng xếp nhà báo này vào hàng ngũ báo chí cổ súy hơn.
(còn nữa)
Hoàng Thư (biên dịch)
Ngẫm ngợi cuối tuần
Sáng và tối
Đỗ Đức
Thể thao văn hóa
02:50' PM - Thứ bảy, 19/12/2009
Có những người ở bên cạnh mình cả vài chục năm mà mình không biết tông tích ra sao. Mà có biết cũng chỉ biết phần sáng chứ phần tối thì tối bưng. Đôi khi biết được điều gì đó thì lại là những phần sáng đáng kính!
Rồi cũng có ngày biết, nhưng đó là ngày không vui vì thường là ngày tạ thế của đương sự. Đó là bài văn điếu, bản tường trình công trạng của mỗi người trong thời gian làm người. Rất trịnh trọng, nhưng cái biết ấy cũng chỉ là khoảng sáng. Cả khoảng sáng khả kính ấy cũng không hẳn đã đúng như ta muốn. Người có vị trí càng cao thì khoảng sáng càng lớn và đôi khi còn sáng hơn bình thường, vì ở bài văn điếu người ta chỉ góp nhặt cái hay thêm vào để nói lời tốt đẹp cuối cùng với người ra đi. Không ai lại đi tiếc người chết một lời khen bao giờ.
Nhiều người biết điều ấy, nhưng vẫn thắc mắc với cái góc khuất. Con người vốn tò mò, luôn muốn nhìn thấu cả khoảng tối của người khác, mà nhất là khoảng tối của những người có danh hoặc có vị trí xã hội thì càng dễ bị tọc mạch.
Chẳng biết để làm gì với cái khoảng tối của người khác. Nhưng sự tìm tòi khoảng tối thì phần lớn chỉ là để thỏa mãn tò mò, kéo nó xuống càng thấp càng gần mình càng tốt, muốn sát mắt cho thật rõ đến chi tiết rồi... cũng chẳng để làm gì ngoài việc làm vốn buôn dưa lê! Trừ nghiên cứu của những người làm sử với các vĩ nhân thì lại là chuyện khác.
Tôi nghĩ con người có hai mặt âm dương như mặt trời mặt trăng. Con người là vậy. Vế nào thái quá đều là bất bình thường. Con người chỉ toàn cái tốt, hoặc toàn cái xấu mới là không bình thường, vì sống là phải vận động, vận động để tồn tại nên trong nhiều cái tốt cũng có lúc mắc sai lầm.... Đó là qui luật, chỉ có thể ngày dài đêm ngắn hoặc ngược lại mà thôi
Tôi thường sợ những gì sáng quá, và tôi nghi ngờ điều đó.
Tôi lại sợ chỗ tối tăm quá, vì không thấy gì và ở đó có thể dễ có cạm bẫy.
Tôi đã từng đi trong cuộc sống lờ nhờ giữa sáng và tối bao nhiêu năm nay rồi. Có lúc cũng nhầm lẫn sáng thành tối, lẫn tối thành sáng, rồi mới nhận ra: phân biệt sáng tối là ở nhận thức chứ không phải ở tai nghe hoặc mắt nhìn!
Nguồn: Thể thao văn hóa
Nghiệt ngã và bất công với gia đình bà Ba Sương
Cán cân công lý đã lệch?
Bùi Quang Minh
Chungta.com
04:46' PM - Thứ năm, 10/12/2009
Một vụ án mà rất nhiều đồng chí lãnh đạo Nhà nước, đại biểu Quốc hội quan tâm, dư luận bức xúc, báo đài phản ánh… mà tòa án – cơ quan đại diện của công lý vẫn có những phán quyết gây sốc cho từng người dân.
Sau phiên 2 phiên xử sơ thẩm, phúc thẩm, người dân vẫn còn nguyên những câu hỏi gây nhức nhối và lo lắng: Liệu đó có phải là kết cục cho sự nghiệp của một người nữ anh hùng năm xưa đã quên mình vì rất nhiều người? Liệu đằng sau các phiên tòa như thế có bắt nguồn từ yếu tố tư lợi đất đai như dư luận nghi vấn? Thời gian sẽ sớm trả lời chúng ta.
Nhưng như thế cũng đã đủ làm cho niềm tin của rất nhiều người về cốt lõi pháp luật của xã hội hướng tới pháp quyền có thêm rạn nứt. Cần lắm cán cân công lý không sai lệch với người có công, kẻ có tội ngay tại vụ việc điển hình - Nông trường Sông Hậu này! Chúng ta không thể vô cảm và đành lòng nhìn sự nghiệt ngã đến với người phụ nữ đáng kính như chị Ba Sương đành rằng chị phải gánh chịu hậu quả của sự "chậm thay đổi nhận thức" về quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế đất nước và "ngây thơ" trong các quyết định quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nước mà mình quản lý.
Chungta.com xin bày tỏ sự lo lắng, suy ngẫm về vụ án này không chỉ với chuyện tù tội của chị Ba Sương mà cả khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng chục nghìn con người của nông trường Sông Hậu trong tương lai. Chungta.com bằng việc đăng lại các sự kiện liên quan của vụ việc rất đáng theo dõi và là cơ sở để chúng ta suy xét, thông cảm về số phận con người đang bị cán cân công lý xét xử làm Tội xóa nhòa hết tình tiết có Công của chị Ba Sương ra sao và dự báo cho tương lai tiếp theo?
Chungta.com tin tưởng sự nghiệp của cha con bà Ba Sương đã gây dựng cho bà con và vùng đất Sông Hậu không mất đi cho dù Tội của bà Ba Sương như thế nào?
Những sự kiện cần tiếp tục theo dõi và chờ đợi Công – Tội được phán xét đúng, thuận lòng người
- Năm 1976, tiểu đoàn Tây Đô, thuộc tỉnh đội Hậu Giang thành lập nông trường Quyết Thắng tại vùng đất phía Tây, cách thành phố Cần Thơ 30 km với ý nghĩa quyết tâm chiến thắng thiên nhiên, giặc giã, lạc hậu, đói nghèo.
- Ngày 20/4/1979, Nông trường Sông Hậu (NTSH) được thành lập theo Quyết định số 33/QĐ-UBT của UBND tỉnh Cần Thơ dựa theo 50% diện tích từ nông trường Quyết Thắng. Đây là khu heo hút, sình lầy, đất trắng do quân đội Mỹ thường xuyên ném bom, oanh tạc. Thiếu tá cựu chiến binh Trần Ngọc Hoằng (Năm Hoằng), nguyên Chính ủy trường Quân chính Quân khu 9, sau đó là Phó giám đốc Ty Nông nghiệp Hậu Giang đã xin tự nguyện về đây để xây dựng Nông trường.
Cố giám đốc Trần Ngọc Hoằng (Năm Hoằng) , Anh hùng lao động thời kỳ Đổi mới, người khai phá, xây dựng lên Nông trường Sông Hậu. Ảnh: CTV.
- Tháng 4/1979, mười sáu chàng trai cô gái đi theo Giám đốc Trần Ngọc Hoằng bơi xuồng vào vùng đất ấy với 10 chiếc máy kéo mua chịu của Chi cục Cơ khí Hậu Giang và 50.000 đồng vay của Phòng Lao động - Thương binh - Xã hội huyện Thốt Nốt để mua gạo, muối, nồi, niêu, bát đũa và dựng mấy túp lều.
Cải tạo vùng đất hoang hóa, sình lầy thuở ban đầu ở Nông trường Sông Hậu. Ảnh: CTV.
Hơn 30 năm qua, từ vùng hoang lầy, trên đất ngập phèn với những lung, đìa, bưng, trấp với diện tích gần 7.000ha, nay đã trở thành Trung tâm sản xuất và kinh doanh nông nghiệp tập trung công nghệ cao, với trên 3.200 hộ dân và hơn 15.000 nhân khẩu.
Nông trường Sông Hậu những ngày đầu vừa thành lập. Ảnh: CTV
NTSH là một xã nghèo tự lực hoàn toàn, nhanh chóng thoát khỏi xã đói nghèo (thay vì lẽ ra Nhà nước phải “rót” một nguồn ngân sách rất lớn); trở thành xã khá và giàu sớm nhất của cả nước bằng việc phát huy nội lực, sự bền bỉ dám nghĩ dám làm trong quá trình xây dựng và phát triển.
- Trong 10 năm tạo dựng đầu tiên (1979-1989), NTSH đã trở thành một “hiện tượng mới” của kinh tế quốc doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó là thành tựu hoàn thành việc cải tạo đồng ruộng, cơ bản xác lập và xây dựng công trình thủy lợi với hệ thống bờ bao phục vụ tưới tiêu, kết hợp xây dựng hệ thống giao thông nội bộ hoàn chỉnh. Thực hiện cơ giới hóa gần như toàn bộ các khâu trong sản xuất nông nghiệp.
Sau nhiều năm gây dựng, giờ đây ở Nông trường Sông Hậu đã cơ giới hoá công việc. Trong ảnh là bà con nông dân ở Nông trường Sông Hậu đang thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp. Ảnh: CTV
Chuyển đổi 100% diện tích lúa mùa nổi một vụ thành đất trồng lúa 2 vụ ăn chắc với diện tích 5. 640,7 ha, nâng tổng sản lượng bình quân từ 2000 tấn/năm trước đây lên trên 60. 000 tấn/năm, mở ra một hướng mới trong trong sản xuất là kết hợp mô hình canh tác lúa - nuôi trồng thủy sản trên 5.000 ha đất, đạt tỷ lệ 90% diện tích.
Hình thành khá đầy đủ, đồng bộ hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống như trạm biến thế, lò gạch, nhà xưởng, kho tàng, phương tiện vận chuyển; hệ thống đường sá - trường học - trạm y tế - nhà văn hóa… tạo ra những điều kiện cơ bản và thuận lợi để bảo đảm cho người dân vừa có điều kiện “an cư”, vừa có cơ hội “lạc nghiệp.
Xây dựng được bộ máy quản lý và sản xuất kinh doanh gồm 245 người, thu hút 1.100 hộ vào làm nông trường viên với trên 3. 000 lao động (tính đến năm 1985); thành lập chi bộ đảng có 15 đảng viên, chi đoàn 55 đoàn viên, tổ chức công đoàn với 170 đoàn viên…
Với 35 tỷ đồng vốn vay ngân hàng là chủ yếu và tích cóp lợi nhuận từ sản xuất để đầu tư cho mua sắm máy móc, thiết bị, cộng với sức người, Nông trường đào đắp và san ủi trên 24 triệu m3 đất, tạo nên 200 km kinh mương thủy lợi, xây dựng 300 cống lớn nhỏ và 2 trạm bơm điện… nhờ đó đã đưa toàn bộ diện tích canh tác của Nông trường từ đất loại 5, loại 7 lên thành “nhất nhị đẳng điền”, chuyển hoàn toàn từ quảng canh sang thâm canh, đạt năng suất bình quân 9 tấn/ha.
- Ghi nhận những đóng góp xuất sắc đó, chỉ sau 6 năm xây dựng, năm 1985, NTSH được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lao động", lần thứ hai, năm 1989.
Cá nhân hai giám đốc là ông Trần Ngọc Hoằng và con gái ông - Trần Ngọc Sương (Ba Sương) cũng trở thành Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (1989-1999).
Nguyên GĐ NTSH Trần Ngọc Sương, Anh hùng lao động
- Năm 1992, Nông trường lần đầu tiên được “cho” phép xuất khẩu trực tiếp nông sản chế biến và đã xuất khẩu được 607 tấn rau quả thu về 158.368 USD. Những năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu của Nông trường liên tục tăng: Năm 1994 đạt trên 1 triệu USD, năm 1995 hơn 3 triệu USD.
Để đến những ngày, nông trường Sông Hậu được quyền chủ động bán các sản phẩm do nông dân sản xuất ra với giá đàm phán với các đối tác. Trong ảnh là kho chứa lúa khang trang của
nông trường Sông Hậu. Ảnh: CTV.
- Ngày 20/5/1996, UBND tỉnh Cần Thơ “cho” Nông trường Sông Hậu từ chuyên sản xuất sang làm thêm kinh doanh, gọi là “sản xuất-kinh doanh-xuất nhập khẩu tổng hợp”. Sang năm 1997, Chính phủ “cho” Nông trường trực tiếp xuất khẩu gạo. Lập tức kim ngạch xuất khẩu của Nông trường vọt lên hơn nhiều năm trước cộng lại. Sang năm 1998, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 55 triệu USD và doanh thu của Nông trường hơn 1.143 tỷ đồng.
Nông trường Sông Hậu ráo riết chuyển đổi 8 đơn vị thành viên thành công ty cổ phần.
Vốn ban đầu hơn 40 tỷ đồng nay lãi mẹ đẻ lãi con đã lên gần 100 tỷ đồng.
Một góc nông trường Sông Hậu hôm nay
(trong ảnh là Nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu). Ảnh: CTV.
Suốt 24 năm (1979-2003), NTSH đã làm thay Nhà nước việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội (điện, đường, trường, trạm...) và các hoạt động văn hóa, xã hội, các đoàn thể mà không được cấp ngân sách.
Khác với các nông lâm trường khác trong cả nước, NTSH tự lực về vốn ngay từ ngày đầu, rất nhiều năm sau mới được Nhà nước cấp vốn, rất nhỏ, chiếm khoảng 8% số vốn.
- Năm 2004, địa bàn của Nông trường được thành lập xã Thới Hưng (huyện Cờ Đỏ) để lo việc hành chính cho dân (13.017 nhân khẩu), Nông trường chỉ còn lo việc kinh doanh để trở thành Tổng công ty Nông nghiệp Sông Hậu. Nhưng từ đó, mảnh đất rộng 6.981 ha cùng do xã và nông trường “dẫm chân nhau” nắm giữ.
Thế nhưng việc tách như thế lại gây thêm nợ cho Nông trường ở chỗ các công trình phúc lợi công cộng do Nông trường đầu tư (từ vay vốn ngân hàng và huy động từ cán bộ) được nhà nước nhận nhưng không trả tiền bồi hoàn cho đến năm 2006 (khoảng trên 42,676 tỷ).
- Hiện trạng tài sản nông trường gần 400 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả chỉ gần 264 tỷ đồng (trong đó có các khoản Nhà nước phải trả như nói ở trên). Kiểm toán Nhà nước đã xác nhận, năm 2004 lãi gần 3,6 tỷ đồng, năm 2005 hơn 5 tỷ đồng.
Chế biến bạch đàn đóng đồ gỗ để xuất khẩu ở NTSH. Ảnh: CTV
Suốt từ 1993 đến 2005 trả lãi vay ngân hàng hơn 235 tỷ đồng, nộp ngân sách hơn 82 tỷ đồng.
- Ngày 21/3/2006 Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ quyết định thành lập Đoàn thanh tra tại NTSH.
- Ngày 22/11/2006, sau 7 tháng thanh tra, ông Nguyễn Thanh Sơn, Phó Chủ tịch UBND tp. Cần Thơ trả lời phóng viên báo Tuổi Trẻ: “Chưa có quyết định chính thức nào về những sai phạm của NTSH. NTSH đang gặp khó khăn do chuyển đổi cơ chế, tuy nhiên làm ăn vẫn hiệu quả. Khó khăn chủ yếu do sử dụng vốn vay ngắn hạn đầu tư các công trình dài hạn và bởi quá trình dài nông trường phải lo công tác xã hội quá nặng nề”.
- Ngày 20/3/2008, Văn phòng Thành ủy Cần Thơ có Thông báo kết luận của đồng chí Phạm Thanh Vận, Phó Bí thư thường trực Thành ủy tp. Cần Thơ tại cuộc họp ngày 18/3/2008 báo cáo xin ý kiến chuyển một số nội dung kết luận thanh tra NTSH sang cơ quan điều tra. Công văn số 91-TP/VPTU ngày 20/3/2008 do ông Đinh Công Út, phó Chánh văn phòng viết: “Sau khi xin ý kiến đồng chí Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, đồng chí Phạm Thanh Vận kết luận như sau: “Quán triệt quan điểm xử lý của Ban Thường vụ Thành ủy, thống nhất chuyển sang cơ quan điều tra những nội dung vi phạm nguyên tắc quản lý đã được Chính phủ và Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng của Trung ương cho ý kiến. Trước mắt khởi tố vụ án về tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng”. (thông thường việc này phải do cơ quan điều tra hoặc VKS tiến hành).
Ông Nguyễn Thanh Sơn thừa hành chỉ đạo của ông Phạm Thanh Vận ký quyết định chuyển hồ sơ từ Thanh tra sang Cơ quan CSĐT, ông Sơn giải thích: “Do lãnh đạo không đồng ý với các nội dung của kết luận thanh tra, không giải quyết được những vấn đề sau thanh tra, nên phải chuyển hồ sơ cho Cơ quan CSĐT”.
- Tháng 4/2008, bà Sương nhận quyết định về hưu của Sở Nội Vụ tp. Cần Thơ đúng tuổi dù bà mong muốn phục vụ thêm ít nhất một năm nữa.
- Ngày 14/4/2008, Công an TP. Cần Thơ họp báo công bố quyết định khởi tố vụ án hình sự “Cố ý làm trái, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” xảy ra ở NTSH.
- Ngày 9/9/2008, Công an TP Cần Thơ đã tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với bà Trần Ngọc Sương, nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu (NTSH); đồng thời khám xét nơi ở của bà Sương cùng văn phòng đại diện NTSH tại TP.HCM.
- Từ 11 đến 15/8/2009, TAND huyện Cờ Đỏ xét xử sơ thẩm vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Sương nói: “Trong những năm chuyển đổi, do cơ chế khó khăn nên chị em chúng tôi tìm cách xoay trở với mong muốn đưa NTSH đi lên để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nếu tôi tham lam tôi đã giàu rồi chứ không như bây giờ”.
Anh hùng lao động thời kỳ Đổi mới Trần Ngọc Sương ra toà cùng các cộng sự trong vụ án "Lập quỹ trái phép", bị cáo buộc vai trò "chủ mưu".
- Theo bản án hình sự sơ thẩm số 25/2009/HSST của Toà án Nhân dân huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ, bà Trần Ngọc Sương cùng 4 bị cáo khác bị cáo buộc phạm tội “Lập quỹ trái phép” với tổng số tiền 9,4 tỷ đồng từ tháng 1/2001 đến tháng 12/2007.
Số tiền này thu từ các nguồn: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất; thu từ nguồn bán bạch đàn; thu thuế đìa cá; cho thuê đất; quản lý máy; quản lý công trình điện nông thôn; bán ao cá; thu tiền chăn nuôi; tiền khấu hao máy; thanh lý tài sản; hoa hồng mua bảo hiểm; cho thuê mặt bằng; tiền vay ngoài…
Trong số 9,4 tỷ đó, số tiền được chấp nhận chi hợp lý là hơn 3,8 tỷ đồng; số tiền bị cáo buộc chi gây thiệt hại là hơn 5,6 tỷ đồng. Cá nhân bà Trần Ngọc Sương bị cáo buộc trực tiếp duyệt chi hơn 4,414 tỷ đồng. Bà Ba Sương bị tuyên phạt 8 năm tù giam và phải bồi thường hơn 4,3 tỷ đồng.
- Sau phiên sơ thẩm, ngày 15/9/2009, Ban Thường trực Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có văn bản 4309/MTTW-BTT do Phó Chủ tịch, kiêm Tổng thư ký Vũ Trọng Kim ký. gửi Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện KSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao, về việc “kiến nghị xem xét bản án”. Văn bản của Ban Thường trực Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam nêu rõ: “Đề nghị các đồng chí chỉ đạo công tác điều tra, truy tố, xét xử cần hết sức thận trọng, khách quan, chính xác, tránh làm oan người vô tội.
Quá trình xử lý vụ việc cũng cần tính đến sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn hiện nay; nhiều qui định có thể không phù hợp với sự vận hành của một quốc doanh vừa có tính chất của một doanh nghiệp Nhà nước lại vừa có tính chất như một hợp tác xã.
Mặt khác, quá trình xử lý cũng cần cân nhắc thận trọng đến hiệu ứng của dư luận đối với kết quả bản án; nhân thân cũng như những đóng góp của cá nhân bà Trần Ngọc Sương đối với sự phát triển của đất nước, của ngành Nông nghiệp trong thời gian qua”.
- Sau phiên tòa sơ thẩm, ngày 19/8/2009, bà Trần Ngọc Sương có bản kháng cáo gửi lên Tòa phúc thẩm, TAND TP. Cần Thơ, ngày 29/8 bà Sương gửi bản kháng cáo bổ sung lần 1, và ngày 24/10 gửi bản kháng cáo bổ sung lần 2. Việc áp dụng Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự (TTHS) của Hội đồng xét xử TAND huyện Cờ Đỏ để ban hành Quyết định yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng không bảo đảm tính hợp pháp -"việc không có quyết định phân công phó thủ trưởng cơ quan điều tra (CQĐT) phụ trách điều tra vụ án, phân công điều tra viên, phân công kiểm sát viên trong vụ án này là vi phạm nghiêm trọng bộ luật Tố tụng hình sự", việc không công bố cho bị can, bị cáo kết quả giám định tài chính là vi phạm điều 158 luật TTHS.... Liên quan đến việc giám định tài chính, luật sư cho rằng việc không ghi rõ những tài liệu nào được sử dụng trong quá trình giám định; những thành viên tham gia giám định và việc giám định kết luận "là hành vi lập quỹ trái phép" là vượt quá quyền hạn..., là vi phạm điều 175 bộ luật TTHS. Đồng thời, việc không công bố cho bị can, bị cáo kết quả giám định tài chính là vi phạm điều 158 luật TTHS.
- Ngày 19/11/2009, sau 2 lần tạm hoãn, Tòa án Nhân dân tp. Cần Thơ xử phúc thẩm vụ án “Lập quỹ trái phép” ở NTSH và vẫn xử y án sơ thẩm: Bị cáo Trần Ngọc Sương, nguyên giám đốc NTSH bị xử phạt 8 năm tù giam, buộc phải bồi thường 4,3 tỉ đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, có 3 luật sư bào chữa cho đã biện luận “không có căn cứ pháp lý vững chắc để xác định bà Ba Sương phạm tội lập quỹ trái phép” bởi các lẽ:
Thứ nhất, Quỹ này đã có từ trước khi bà Ba Sương làm giám đốc và vào thời điểm đó (năm 1981 pháp luật cho phép thành lập quỹ này);
Thứ hai, việc xác định có hay không hậu quả xảy ra, hậu quả gây thiệt hại cho ai, ngân sách nhà nước, tập thể người lao động, hay… chưa được làm rõ;
Thứ ba, NTSH là một mô hình kinh tế đặc thù trong nông nghiệp vừa làm sản xuất kinh doanh, nhưng lại vừa làm công tác phúc lợi xã hội. Do đó, những khoản thu chi không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước do công sức lao động tập thể làm thêm là những khoản thu chi hợp pháp, hợp lệ”.
Luật sư Nguyễn Đăng Trừng cảnh báo: “Mong HĐXX xem xét đến tính lịch sử, quá trình lịch sử khi xem xét phán quyết vụ án này. Một đơn vị như NTSH 2 lần Anh hùng, ông Trần Ngọc Hoằng là Anh hùng. Con gái ông Hoằng là bà Sương cũng là Anh hùng. Cha con đều là Anh hùng, đơn vị được nhiều lần tôn vinh. Nếu không xem xét, thì chính chúng ta hôm nay sẽ nã đại bác vào quá khứ. Mà đây không phải là một quá khứ bình thường. Đây là một quá khứ đã được Tôn vinh”.
- Ngay ngày 19/11/2009, Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ xử phục thẩm đã y án sơ thẩm làm dư luận hết sức bức xúc.
Phiên tòa xét xử vụ án NTSH tuyên án lúc 3h chiều ngày 19/11/2009. Bà Trần Ngọc Sương vắng mặt khi tuyên án vì sức khỏe quá yếu. Năm nay bà Trần Ngọc Sương đã 61 tuổi, có 28 năm phục vụ cho NTSH. Ảnh: GVT
- Ngày 25/11/2009, trả lời câu hỏi phóng viên, Bí thư Thành ủy Cần Thơ Nguyễn Tấn Quyên đã nói: “Bây giờ, vụ án Nông trường Sông Hậu cơ quan pháp luật người ta đang làm, Thành ủy chưa có ý kiến gì. Các đồng chí thông cảm. Tôi cũng chưa có ý kiến về vấn đề mà cơ quan pháp luật họ đang làm.”
- Ngày 25/11/2009, Nhà sử học Dương Trung Quốc, ĐBQH tỉnh Đồng Nai khi được phỏng vấn đã nhận định: "Dưới góc độ một người nghiên cứu lịch sử, tôi thấy vụ án này phản ảnh bước chuyển đổi của xã hội, chuyển đổi về những giá trị và đương nhiên trong đó cốt lõi là luật pháp.
Tôi rất chú ý đến chi tiết chưa được kiểm chứng là đằng sau vụ án này có yếu tố đất đai. Tôi không bình luận trực tiếp về những thông tin Thành phố Cần Thơ muốn lấy đất Nông trường Sông Hậu để làm khu đô thị, nhưng tôi thấy trong xã hội hiện nay, vấn đề đất đai luôn luôn có mặt đằng sau mọi động thái xã hội."
- Ngày 20-11, Công ty nông trường Sông Hậu đã gửi văn bản đòi lại nhà em bà Sương đã thuê (hết hạn 2010) mà bà Sương đang nghỉ trị bệnh tại tp. HCM tại số 17 Điện Biên Phủ (P.15, Q.Bình Thạnh, tp.HCM).
Không đấu đối kháng không thể có người hùng
Nguyễn Hoàng Đức
An ninh toàn cầu - Phụ trương báo Công an nhân dân
02:40' PM - Thứ tư, 09/12/2009
Có một mệnh đề chắc chắn không ai có thể cãi được rằng: Trận chiến gian nan nhất sẽ tạo ra anh hùng oanh liệt nhất. Không thể có anh hùng lớn thuộc về một trận đánh nhỏ. Cũng không thể có một trận đánh nhỏ tạo ra những anh hùng lớn. Một cách đồng đẳng và tỷ lệ thuận hẳn là: chỉ có những người hùng lớn nhờ chiến thắng những trận đánh lớn; trái lại chỉ có anh hùng bé sinh ra từ trận đánh nhỏ (không rõ mấy anh ti toe comment hoa cà - hoa súng, hay giở giọng ngô khoai sắn có tung tăng – tung hứng bình luận gì về mệnh đề logic này của tôi không? Nếu không dám bình luận được đúng hay sai, không dám bày tỏ đồng thuận hay phản bác thì xin đừng vào xới. Lọ mọ khoe mẽ ba chữ râu ria phỏng có ích gì?)
Trận đánh lớn nhất là gì? Đó hẳn phải là các cuộc chiến – vì nó liên quan trực tiếp đến sinh – tử của con người (cũng như vạn vật). Nhưng còn các loại đấu khác trong thể thao và trí tuệ, không mang tính sinh – tử trực tiếp, nhưng được “đồng tâm”, “đồng quy” vào loại hình “Đối kháng” – tức đối đầu trực tiếp. Không phải ngẫu nhiên mà người ta phần đông thế giới coi rằng: Bóng đá là môn thể thao vua, bởi lẽ, đó là môn thể thao hai đội đối mặt, ở hai phần sân giống nhau, bằng nhau, với hai hiệp có đổi sân, đấu đối kháng trực tiếp với nhau.
Tất nhiên, vẫn có một số người cho rằng, anh ta thích chơi khăng ở làng hơn… Tôi xin nói luôn, ở đây chúng ta bàn đến cái “phổ biến của phần đông nhân loại”, triết gia Hegel nói rằng: Cái gì không tiến đến phổ quát chỉ là thứ bỉ ổi và lố bịch. Thử hỏi nếu sự thật không tiến đến “phổ quát” làm sao có thể trở thành chân lý? Tất cả các toà án trên thế giới đều phải áp dụng “luận nhân chứng” – tức người thứ ba, có nghĩa rằng bất cứ sự việc là “bên bị” hay “bên nguyên” – là A hoặc B đều có người chứng giám ở ngoài cá nhân anh. Không có nhân chứng không bao giờ thành phiên toà. Người Pháp có câu “Công lý là người thứ ba”: “La just est le tiere”. Người thứ ba là cánh cửa “người khác” đầu tiên mở vào “giá trị phổ quát”. Tóm lại, những người từ chối cái phổ quát hướng về mình chỉ là những kẻ “ích kỷ hại tha”, ngồi xổm lên dư luận, loại anh hùng xó bếp này chúng ta không có gì và cách gì để bàn. Người Việt bảo: “Nói phải củ cải cũng nghe”. Lẽ phải – là công lý chung, cũng là cái phổ quát, có sức mạnh thuyết phục vạn vật. Còn mấy kẻ ăn nói tuỳ tiện lăng nhăng nào có nghĩa gì. Người Việt bảo “Nói có sách mách có chứng”, nghĩa là, tiếng nói của người ta nếu muốn có giá trị thì phải có bằng chứng hướng về công lý phổ quát.
Đấu đối kháng là xung đột mạnh mẽ nhất của cuộc đời, và ở đó nó tạo ra những người chiến thắng lớn nhất, những ngôi sao đắt giá nhất, những Pele và Maradona vinh quang ngang ngửa nguyên thủ quốc gia của Braxin và Ác-hen-ti-na… Đây cũng là nguyên lý mạnh mẽ nhất của Mỹ học – xương cốt cho văn chương và mọi ngành nghệ thuật. Đó là: Mâu thuẫn đối kháng trong các tác phẩm như Illiad và Odissey của Homer hoặc “Romeo và Juliet” của Shakespears… đã làm nên những tác phẩm vĩ đại bất hủ hàng đầu.
Với trí tuệ, cái gọi là mâu thuẫn đối kháng được gọi là đối thoại. Thứ hội thoại đối nhau cũng là hình thức cao nhất của thoại. Chỉ có đối thoại mới dẫn con người tìm thấy trí tuệ cao, mưu cao, và tiệm cận chân lý hơn. Không có đối thoại sẽ không có các vấn đề của đời sống, tình yêu và trí tuệ, lúc đó lời nói chỉ là lời của đám người ở trong bếp.
Thể thao lớn hơn thể dục cái gì? Thể thao là thứ có quy chế phân biệt, có lệ luật thi đấu, có trọng tài phân minh. Còn thể dục: đó chỉ là cách vươn tay, vươn chân. Một tầng lớp, một dân tộc có được thể thao thì khác hẳn một trời một vực những người chỉ có khả năng vươn vai, vươn tay, vươn chân tập thể dục.
Ngôn ngữ cũng vậy, nếu nó được đưa vào hình thức đối thoại, thì đó là cuộc đấu “thể thao” của ngôn từ. Mục đích của nó sẽ là: trí tuệ, chân lý, lý tưởng. Còn nếu không được đấu trong đối thoại, nó chỉ là ngôn ngữ sinh hoạt, vươn tay chân của đám múa lưỡi ba hoa, vài thứ sáo rỗng vô tích sự. Triết gia Kant nói: “Người có học mà không có khả năng phán xét chỉ là thứ kiến thức vô tích sự”. Người Pháp thì nói: “Một cái đầu biết làm còn hơn một cái đầu đầy ắp”. Học ít mà người ta biết làm, chí ít biết phán xét sự vật hiện tượng theo kiến thức của mình, thì chắc hẳn phải hơn những kẻ chất trong đầu bồ chữ nọ bồ chữ kia, rút cục không phát tiết nổi một ý tưởng nào. Trường hợp đó người Việt bảo: “học phí cơm” hoặc “học đổ cơm xuống cống”.
Có không ít người không dám sống với tinh thần “thể thao” hay đối thoại còn nói rằng: - Người ta không thèm đối thoại. “Không thèm” ư? Sao không ở nhà mà cứ thập thò ra ngoài ngõ muốn “ra vẻ ta đây” nói vài câu để thể hiện, trưng diện cho bản thân mình, đến khi người ta cầu thị hẳn hoi mời nói, lại bảo “không thèm”. Họ còn dẫn chứng mấy người có vẻ đức cao vọng trọng kiểu Tầu, thấy đại quân đi qua, thường xuống núi nói vài câu hoặc mấy từ thể hiện trình độ thời thế cao siêu lắm, nhưng quan quân đi tìm để xin cố vấn đàng hoàng, thì biến đi mất dép không thấy tăm hơi sủi bọt đâu. Đây là hạng người mà người Trung Quốc hiện đại gọi là đám hủ nho, khuyển nho, nói vật vờ ngoài rìa mấy câu nghe có vẻ lắm, nhưng chẳng bao giờ dám bước lên vũ đài tỉ thí đối thoại, để thấy lý kỳ cùng ai giỏi, ai kém?!
Chúng ta đều biết: một xã hội không có toà án nghĩa đen thì không có công lý. Và công lý sẽ không thể có nếu không có bằng chứng xác thực. Người Trung Quốc cảnh báo rằng: “khẩu thiệt vô bằng”, nghĩa là: nói xấu không cần bằng cớ. Ta có thể nói bâng quơ một câu về ai đó rằng: hình như nó ăn cắp, hình như nó hiếp dâm, mà không cần bằng cớ, có nghĩa là nói xấu người khác. Ở đâu, xã hội có luật dân sự chặt chẽ, thì kẻ nói xấu người khác vô cớ sẽ bị phạt tội.“Khẩu thiệt vô bằng” thì chỉ cách “gắp lửa bỏ tay người” một chút thôi.
Tôi đã từng gặp không ít chuyện thế này, có người bảo “trình độ của anh kém lắm”, “tác phẩm của anh tồi lắm, sai bét”.
Tôi liền hỏi: - Xin anh chỉ cho tôi một chỗ sai có được không?
Họ liền bảo: - Tôi việc gì phải nhớ chỗ sai của anh. Tự anh hãy biết và tìm lấy.
Không còn cách nào tôi liền bảo: - Anh đã chơi trò “khẩu thiệt vô bằng”.
Chúng ta hẳn sẽ đồng ý: một cá nhân, một nhóm người, một gia đình, một xã hội không thể tốt đẹp nếu không có công lý. Bởi vì, không có công lý, thì người ta mặc sức vu vạ, ăn hiếp, và đặt điều cho nhau. Chúng ta cũng biết: một gia đình hay xã hội không thể tốt đẹp, nếu mỗi người không thực hiện trách nhiệm của mình. Đơn giản như một cỗ máy kia, các chi tiết máy là các cá nhân ở đúng vị trí và chức năng của mình, nhưng nếu chi tiết đó không có trách nhiệm vận hành, giống chiếc kim giây không chạy, thì kim phút, kim giờ, rồi số hiển thị ngày, và tháng không hoạt động, xã hội như chiếc đồng hồ sẽ trở thành đồ phế thải. Vậy mà trách nhiệm lớn nhất của con người là ngôn ngữ, bởi lẽ ngôn ngữ là trí tuệ cũng là phương tiện tương giao hàng đầu giữa người với người, vậy mà trong giao tiếp ngôn ngữ của chúng ta lại không có trách nhiệm, thử hỏi: quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, xã hội sẽ ra sao?
Con người, lớn hơn là một công dân thì chí ít buộc phải có trình độ văn hoá tối thiểu để sống chung với mọi người. Người Việt có câu “Sợ người ở phải hãi người cho ăn” mà. Trong đó, văn hoá đầu tiên của người ta thường là: “cái gì của Chúa hãy đem trả cho Chúa, cái gì của Sê da hãy đem trả lại Sê da”, tức là chúng ta nên trả lại mọi việc cho người biết việc. Đồng hồ muốn vận hành thì kim giây chớ chạy cho kim giờ, còn kim giờ đừng chạy cho kim phút. Triết gia Socrate bảo: Không ai có sở trường về mọi sự, kể cả những người thông thái nhất, vì thế nên trao việc chuyên môn cho người có sở trường.
Nhưng càng ngày chúng ta lại càng xuất hiện những ông “biết tuốt”. Nói cái gì cũng như thánh tướng, nhưng lại nói theo kiểu càn quấy vừa lấy thái độ trấn áp, vừa sẵn sàng nổi cáu để đem tâm lý can thiệp vào chân lý. Kể ra, có những người “biết tuốt” cũng đáng quý thôi, nhưng trái khoáy thay những người này sẵn sàng thể hiện và trưng diện kiến thức của mình song lại không dám chịu bất kỳ trách nhiệm nào về nó. Nổi cáu lên, ông coi trời bằng vung, chửi tuốt, coi các vĩ nhân và thiên hạ chẳng là gì. Trời ơi, những con người đó yếu hay mạnh? Người Trung Quốc có câu “có lý đi khắp thiên hạ, không có lý không đi quá một bước chân”. Để hiểu câu này chúng ta thử ngắm lũ lục làm thảo khấu, dù chúng rất bặm trợn, nhưng chúng không thể xông thẳng vào quán ăn, ăn xong không trả tiền, mà chúng phải đánh cướp tiền ở chỗ khác để bước vào hàng ăn. Vậy là cho dù là những kẻ sống ngoài pháp luật chúng cũng vẫn phải tuân thủ nguyên lý giá trị của đồng tiền.
Mới đây, nhờ có mạng Internet và blog cá nhân, có rất nhiều dạng không viết nổi một tiểu luận ngắn cũng nhảy bừa vào comment trăm thứ hệ trọng ở đời. Nhưng bài comment quá ngắn, chúng chưa đáng là gôn tôm để khơi chảy một logic nào cả, và cũng có rất nhiều bài chẳng thể hiện một chút nào trí tuệ có trách nhiệm của người viết. Người ta thả sức bàn tán, rồi bình luận cả trình độ, tài năng, và nhân cách của người khác nhẹ tựa vứt đi lông hồng, mà chẳng cần đưa ra bằng cớ gì cả. Như vậy, có khác gì “khẩu thiệt vô bằng”. Một thứ võ có thể ám sát các thiên tài, quốc gia và nhân loại?
Nhưng nhìn quả biết cây! Mấy lời thể hiện ta đây không bằng cớ có khác gì tuỳ tiện, mà người Trung Quốc gọi: kẻ tuỳ tiện cùng là thứ hạ tiện, vì không làm theo bất kể luật tắc nào. Kỹ thuật khi bị lạm dụng theo chiều hướng xấu nó sẽ phá hỏng thế giới như văn hào Rabelais người Pháp nói: “Khoa học không có lương tâm chỉ là táng bại tâm hồn” (…Science sans conscience n’est que ruine de l’ame)
Tất cả chúng ta đều hy vọng khoa học, mạng Intenet cũng như sự thuận lợi của các blog cá nhân sẽ góp phần làm cho cuộc đời chúng ta tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn, cao cả hơn, và xứng đáng hơn… Nhưng điều đó chỉ được thực hiện bằng trách nhiệm và lương tri của mỗi người. Mà lương tri là gì? Đó là, con người muốn có lương tâm thì trước hết phải có tri thức. Tri thức phải học hành cẩn thận đầy đủ mới có được, chứ đừng học lỗ mỗ để rồi đòi quảng diễn một lương tâm lỗ mỗ bé như gôn tôm mà còn thủng lỗ chỗ, sờ vào chỗ nào thủng chỗ đó. Mong rằng tất cả chúng ta đều biết cải thiện tri thức của mình để nó trở thành giá trị xứng đáng nhất./.
Trại viết Sầm Sơn, 05/11/2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét