Thứ Hai, 7 tháng 12, 2009

Kỳ án Đặng Nam Trung: Tòa xử sơ thẩm lần thứ 6

Bản bào chữa của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà cho nhà báo Dương Tiến
Thưa Hội đồng xét xử,
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua diễn biến tại phiên Tòa, tôi có đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng thân chủ tôi, ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, nguyên Trưởng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 258 Bộ Luật hình sự như Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng (sau đây gọi tắt Tòa án thành phố Đà Nẵng) do Thẩm phán – Phó Chánh án Nguyễn Thành làm chủ toạ HĐXX đã tuyên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2009/HSST ngày 07/8/2009 (sau đây gọi tắt Bản án).
Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân…”, Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Rồi các Điều 68, 137 BLTTHS quy định về lời khai của người bị hại, Điều 191 BLTTHS quy định sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa… Như vậy theo pháp luật hình sự, tội phạm được xác định bởi người bị hại, không có người bị hại thì không có tội phạm.
Chắc chắn “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” không thuộc các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và vì thế người bị hại bởi tội phạm này chắc chắn không chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng nghĩa với việc người bị hại phải lên tiếng về tội phạm bằng cách này hay cách khác. Thế nhưng trong toàn bộ hồ sơ của vụ án liên quan đến ông Dương Tiến không có bất cứ dấu vết nào dù là nhỏ nhất cho thấy có người bị hại như đơn tố cáo, lời khai, của người bị hại tại Cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của ông Dương Tiến. Do đó hoàn toàn không có việc ông Dương Tiến phạm tội. Nói cách khác, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng xét xử ông Dương Tiến là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và bản án mà Tòa án này tuyên đối với ông Dương Tiến là bản án trái pháp luật!
Với lý do trên, tôi trân trọng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án đối với ông Dương Tiến và phục hồi cho ông Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.<
Thưa Hội đồng xét xử,
Như vậy, về nguyên tắc, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ của tôi là ông Dương Tiến do trong vụ án không có người bị hại. Thế nhưng để những quyền cơ bản của công dân quy định tại Điều 69 (Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin…), Điều 71 (Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm), Điều 74 (Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước… hoặc bất cứ cá nhân nào) của Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối, tôi thấy cần thiết phải chứng minh Tòa án thành phố Đà Nẵng đã cố tình kết án oan công dân Dương Tiến như thế nào.
Tại Bản án trong phần “Xét thấy”, Tòa án thành phố Đà Nẵng luận tội ông Dương Tiến như sau: “Đối với Dương Tiến, với tư cách là phóng viên, trưởng Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng. Dương Tiến cũng là một trong những người cung cấp tài liệu cho Đinh Công Sắt tán phát thông qua việc gọi Đinh Công Sắt ra Hà Nội vào ngày 14/5/2007 để hỗ trợ tiền và đưa cho Sắt 02 công văn số 73,77 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, bảo Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng. Ngoài những hành vi trên, từ ngày 17/5/2007 đến ngày 19/5/2007, Dương Tiến còn trực tiếp vào Đà Nẵng để theo dõi, nắm tình hình dư luận về bài báo của Dương Tiến viết về Đà Nẵng cũng như kết quả tán phát công văn số 73,77 của Đinh Công Sắt. Tại đây, Dương Tiến còn tiếp tục cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo. Qua xem xét hành vi phạm tội của Dương Tiến, Hội đồng xét xử thấy rằng Dương Tiến cũng là một trong những bị cáo đã thực hiện tội phạm một cách tích cực, đặc biệt là việc trực tiếp cung cấp công văn 73,77 để Đinh Công Sắt tán phát”.
Như vậy, để có thể tuyên ông Dương Tiến phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” quy định tại Điều 258 Bộ Luật hình sự, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quy cho ông Dương Tiến ba hành vi sau:
1. Viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” (bài “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” đăng trên báo CATPHCM ngày 10/5/2007).
2. Đưa cho Đinh Công Sắt 02 công văn số 73,77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, bảo Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng.
3. Cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo.
Thế nhưng cả ba hành vi này hoặc là bịa đặt, không có trong Cáo trạng hoặc không thuộc hành vi bị pháp luật cấm nên không thể là chứng cứ kết tội ông Dương Tiến như trình bày sau đây.
1. Hành vi “viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” là bịa đặt, không có trong Cáo trạng.
Để xác định ông Dương Tiến có hay không có hành vi viết báo không đúng sự thật nhất thiết phải căn cứ vào Luật Báo chí. Thực vậy, Khoản 2 Điều 9 Luật Báo chí quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền phát biểu bằng văn bản về những nội dung đề cập trên báo chí khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình. Cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đối với thông tin đã được đăng, phát sóng trên báo chí của mình”. Thế nhưng đã không có bất cứ tổ chức, cá nhân nào khiếu nại, yêu cầu báo Công an thành phố Hồ Chí Minh và cá nhân ông Dương Tiến cải chính, xin lỗi sau khi bài “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” được đăng, đồng nghĩa bài báo này của ông Dương Tiến không có thông tin sai sự thật. Báo cáo số 200/BC/PX 21 ngày 26/11/2009 của Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh gửi Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và Viện kiểm sát nhân dân tối cao khẳng định:
“Trên báo CATP năm 2007, ông Dương Tiến chỉ viết 1 bài báo về Đà Nẵng tựa đề “Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?” đăng trên báo CATP ngày 10/5/2007, nội dung phản ánh một số bức xúc của người dân Đà Nẵng trong đền bù và giải phóng mặt bằng. Cuối bài viết, với tinh thần khách quan và xây dựng, tác giả cũng đề nghị các cơ quan chức năng làm rõ để xử lý nghiêm những cá nhân sai phạm và những ai lợi dụng khiếu nại tố cáo không đúng sự thật. Từ khi bài báo đăng cho tới nay, báo CATP không hề nhận được bất cứ công văn, đơn thư của cơ quan, cá nhân nào ở TP Đà Nẵng khiếu nại về nội dung bài viết trên. Các cơ quan chỉ đạo và quản lý nhà nước về báo chí như Ban tuyên giáo trung ương, Bộ Thông tin – Truyền thông, Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở Thông tin – Truyền thông TP Hồ Chí Minh cũng không hề có ý kiến phê bình hoặc lưu ý rút kinh nghiệm đối với bài báo trên. Trong bản Cáo trạng số 20/CT-KSĐT-TA ngày 18/6/2009 của Viện KSND TP Đà Nẵng đề nghị truy tố ông Dương Tiến cũng không hề đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, trong bản án số 16/2009/HSST ngày 7/8/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng lại ghi: “Đối với Dương Tiến, với tư cách là phóng viên, trưởng Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng”. Việc Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng kết luận như trên theo báo CATP là không có cơ sở thực tế và pháp lý”.
Để cho hết nhẽ, giả thiết báo chí thông tin sai sự thật và tổ chức, cá nhân có liên quan đã yêu cầu báo chí cải chính mà cơ quan báo chí vẫn không cải chính thì vụ việc sẽ được giải quyết bằng biện pháp hành chính, dân sự chứ không thể bằng biện pháp hình sự và đây chính là biện pháp cần thiết để bảo vệ Quyền tự do báo chí đã được Hiến pháp quy định. Thực vậy, Khoản 4 Điều 9 Luật Báo chí quy định: “Trong trường hợp cơ quan báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án”.
Như vậy, bằng việc bịa đặt cho ông Dương Tiến hành vi “viết bài không đúng sự thật…”, Tòa án thành phố Đà Nẵng đã có hành vi “vu khống” ông Dương Tiến và không những thế, còn xâm phạm trắng trợn tố tụng hình sự khi lấy hành vi bịa đặt này làm căn cứ để xét xử ông Dương Tiến. Thực vậy, Theo Điểm a Khoản 1 Điều 166 BLTTHS (Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng), Điểm 2 Điều 178 BLTTHS (Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ Tội danh và điều khoản của BLHS mà Viện kiểm sát áp dụng đối với hành vi của bị cáo) và Điểm a Khoản 1 Điều 179 BLTTHS (Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được) thì đối tượng xét xử của Tòa án là hành vi phạm tội được Viện kiểm sát nêu trong Cáo trạng và Tòa án có quyền trả hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung hành vi mà theo Tòa án có dấu hiệu phạm tội. Nói cách khác, Tòa án không có quyền xét xử hành vi mà Viện Kiểm sát không đề nghị. Chính vì vậy, Điều 196 BLTTHS quy định giới hạn của việc xét xử như sau: “Toà chỉ xét xử những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát truy tố”.
Việc ông Dương Tiến viết bài đăng trên báo Công an TP Hồ Chí Minh được Cáo trạng đề cập như sau: “Tiến đã gặp Sắt và Thăng nhiều lần để nắm tình hình phản ứng của dư luận nhân dân thành phố khi đọc bài báo do Tiến viết về khiếu kiện ở Đà Nẵng đăng trên báo Công an TP Hồ Chí Minh số ra ngày 10/5/2007”. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng đưa hành vi “viết bài không đúng sự thật” không hề có trong Cáo trạng ra xét xử là vi phạm Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử, đồng nghĩa Tòa án này cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra là tại sao Tòa án thành phố Đà Nẵng lại liều lĩnh và trắng trợn bịa đặt cho ông Dương Tiến hành vi “viết bài không đúng sự thật…”? Câu trả lời chỉ có thể là do áp lực phải kết tội ông Dương Tiến cho bằng được nhưng nếu chỉ với hành vi liên quan đến hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng thì không thể quy ông Tiến vào hành vi “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ” (các quyền này bao gồm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội…) nên Tòa án thành phố Đà Nẵng đành nhắm mắt làm liều, có bịa đặt như vậy thì mới quy được ông Tiến vào hành vi “lợi dụng quyền tự do báo chí” và trên cơ sở đó mới hòng khép ông Tiến vào tội danh “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ…”! Thực vậy, tại bản án trong phần luận tội ông Tiến như trên đã nêu, hành vi “viết bài không đúng sự thật…” được đính với “Lợi dụng quyền tự do báo chí” còn hành vi liên quan đến hai công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không thấy được đính với “Lợi dụng” bất cứ quyền tự do, dân chủ cụ thể nào!
2. Hai công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không có nội dung sai sự thật và không phải tài liệu bị pháp luật cấm lưu hành.
Điều hiển nhiên là để có thể kết luận việc ông Dương Tiến đưa 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng cho Đinh Công Sắt để rồi Sắt photo và tán phát là hành vi “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” thì Tòa án thành phố Đà Nẵng bẳt buộc phải chứng minh hai tài liệu này có nội dung sai sự thật vì chỉ có sai sự thật thì việc lưu hành hai tài liệu này mới có khả năng xâm phạm quyền, lợi ích của người khác. Thế nhưng tại Bản án Tòa án thành phố Đà Nẵng đã không hề đả động đến nội dung của 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng cũng như không có bất cứ kết luận “vo” nào là hai tài liệu này có nội dung sai sự thật. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng kết án ông Dương Tiến là hoàn toàn không có cơ sở và vì vậy là hành vi cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến.
Mặc dầu vậy, một khi 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng đã được Tòa án thành phố Đà Nẵng đặt lên bàn xử án thì không thể không làm rõ nội dung hai tài liệu này là đúng hay sai sự thật. Đó là Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 gửi Lãnh đạo VKSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 gửi Đ/c Viện trưởng VKSNDTC và Đ/c Phan Diễn, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, cả hai đều đề cập đến việc ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng (hiện là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội) đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam. Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban Kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Cưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Cưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.
Do không có bất cứ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào cho đến thời điểm diễn ra phiên tòa phúc thẩm này kết luận 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng có nội dung sai sự thật cũng như không có bất kỳ dấu “Mật” nào đóng trên hai công văn này nên hai công văn này tuyệt nhiên không phải là tài liệu bị pháp luật cấm lưu hành. Vả lại ông Dương Tiến không công tác tại VKSND TP Đà Nẵng, báo Công an thành phố Hồ Chí Minh nơi ông công tác không phải là địa chỉ đến của 02 công văn số 73 và 77 của VKSND TP Đà Nẵng nên càng không có ràng buộc nào đối với ông Dương Tiến trong việc lưu hành hai công này. Do đó việc ông Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem và việc Sắt photo và lưu hành hai công văn này không có gì là trái pháp luật.
Mặc dầu vậy, vẫn phải khẳng định rằng Tòa án thành phố Đà Nẵng đã vu khống ông Dương Tiến với kết luận ông Dương Tiến “bảo” Đinh Công Sắt photo và mang 02 tài liệu này về tán phát tại Đà Nẵng. Chứng cứ làtại hai phiên toà sơ thẩm trước, ngày 22-23/9/2008 và ngày 6-7/8/2009, Đinh Công Sắt luôn khẳng định việc photo và phát tán hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng là do Sắt tự ý làm, không bị ai xúi giục.
Ngoài ra, Tòa án thành phố Đà Nẵng đã tự mâu thuẫn khi kết luận như vậy. Tại Bản án có ghi: “Nguyễn Trịnh Thăng do quen biết với Dương Tiến (Trung tá, Trưởng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội) nên Linh đã bảo Thăng dẫn Sắt đến gặp Dương Tiến để đưa đơn. Thăng đồng ý và trực tiếp dẫn Sắt đến Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh ở 175 Nguyễn Thái Học – Hà Nội để gặp Tiến. Tại đây Sắt đưa Dương Tiến đơn tố cáo nêu trên do Sắt ký tên”. Như vậy, Đinh Công Sắt là người chủ động tố cáo ông Nguyễn Bá Thanh với nhà báo Dương Tiến như Tòa án thành phố Đà Nẵng thừa nhận thì không thể có chuyện ngược lại là ông Dương Tiến “bảo” Sắt photo và phát tán hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng, tức biến Đinh Công Sắt thành người thụ động trong việc tố cáo ông Nguyễn Bá Thanh!
Nhân đây cần khẳng định rằng chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải là việc riêng của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng nghĩa hoạt động của các cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người dân và của xã hội thông qua báo chí. Để nói việc ông Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem hai công văn số 73 và 77 của Viện Kiểm sát thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn chính đáng và cần thiết, không chỉ trao đổi thông tin để chống tham nhũng có hiệu quả hơn mà còn để giám sát chính quyền nói chung, cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng trong đấu tranh chống tham nhũng!
Điều đáng lưu ý là ngoài hai công văn 73,77 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng, theo ông Trần Văn Thanh, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Công an tại Bản trình bày ngày 03/11/2008 làm theo yêu cầu của tổ công tác liên ngành kèm theo công văn 3429/VKSTC-V2 ngày 30/10/2008 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, còn có nhiều văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở và đề xuất xử lý, như:
Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị can và việc Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố để điều tra là vi phạm Điều 103, 104 BLTTHS, có dấu hiệu vi phạm Điều 294 BLHS.
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì “Tội nhận hối lộ” là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 23 BLHS là 20 năm. Do hành vi tham nhũng được nêu tại hai công văn 73 và 77 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng và các văn bản nêu trên của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng và của Bộ Công an chưa được khởi tố để điều tra theo luật định nên mọi tố cáo về hành vi tham nhũng này vẫn luôn có giá trị và cần được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiếp tục giải quyết.
3. Hành vi “cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo” là bịa đặt, không có trong Cáo trạng.
Trước hết, Tòa án thành phố Đà Nẵng hoàn toàn khuất tất khi nói ông Trần Đình Bá có bài viết với những nội dung không đúng sự thật nhưng lại không nêu ra được bài viết đó có tiêu đề gì. Trên thực tế, bài viết của ông Trần Đình Bá có tiêu đề “Phải chăng hàng loạt những tố cáo về ông Nguyễn Bá Thanh là không có cơ sở” và cho đến thời điểm này không có bất cứ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào kết luận bài viết của ông Trần Đình Bá có nội dung sai sự thật, đồng nghĩa Tòa án thành phố Đà Nẵng đã có hành vi bịa dặt. Điều đáng lưu ý là trong Cáo trạng và ngay trong phần “Nhận thấy” của Bản án, không hề có chi tiết “Dương Tiến còn tiếp tục cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo”. Do đó, việc Tòa án thành phố Đà Nẵng đưa hành vi vừa bịa đặt vừa không hề có này trong Cáo trạng ra xét xử để kết án ông Dương Tiến không những vi phạm Điều 196 BLTTHS về giới hạn của việc xét xử mà còn là hành vi cố ý “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” đối với ông Dương Tiến và “vu khống” đối với ông Trần Đình Bá!
Thưa Hội đồng xét xử,
Không nghi ngờ gì nữa, bằng việc xâm phạm trắng trợn tố tụng hình sự và bịa đặt chứng cứ để kết tội ông Dương Tiến thể hiện tại Bản án hình sự số 16/2009/HSST ngày 6-7/8/2009, Tòa án thành phố Đà Nẵng là điển hình xâm phạm hoạt động tư pháp, làm oan người vô tội.
Vì vậy, tôi trân trọng đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên ông Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án đối với ông Dương Tiến và phục hồi cho ông Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.
2. Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với các thành viên Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 6-7/8/2009 về “Tội truy cứu trách trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 295 Bộ Luật hình sự.
Tôi chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử và tất cả mọi người có mặt tại phiên tòa này đã chú ý lắng nghe.
Người bào chữa
LS NTDH
24 Điện Biên Phủ – Hà Nội
ĐT: 04.39902269, 0983345392.
.. Tâm sự và thắc mắc của một độc giả 8x

H. H. H.
Kính thưa các cô, các bác trong Ban Biên tập trang mạng Bauxite Việt Nam và những độc giả của trang mạng này!
Lời đầu tiên cho cháu chúc sức khỏe các cô, các bác, chúc cho trang web yêu thương nhỏ nhắn này sẽ mãi mãi đồng hành cùng độc giả trong và ngoài nước. Đồng thời cháu cũng trân trọng cám ơn những bài viết hay đã giúp cháu được mở mang thêm kiến thức, thêm yêu nước, để càng cố gắng là một trang nam nhi nước Nam.
Cháu xin được “khoe” rằng cháu là một độc giả trung thành của http://bauxitevn.net, nếu trang mình có chế độ thành viên thì chắc chắn sẽ biết cháu thường đón đọc những bài viết lúc ngày mới vừa bắt đầu. Nói như vậy để các cô, các bác biết rằng thế hệ trẻ của chúng cháu (8x) không phải không tìm hiểu và không quan tâm đến tình hình nước nhà, tình hình biên cương xã tắc, chính trị xã hội… Các cô, các bác đừng “mắng” và buồn chúng cháu nhiều nữa nhé. Chúng cháu sẽ cố gắng từng ngày.
Sau một thời gian chỉ đọc bài người khác viết, nay cháu xin mạo muội nói lên một số suy tư và thắc mắc của mình.
1. Cháu thắc mắc về từ “bộ phận”.
Lâu nay đọc báo giấy, báo mạng, nghe nghị quyết, diễn văn, đặc biệt là nghe các báo cáo và chất vấn, cháu thường thấy xuất hiện từ “bộ phận” như “đại bộ phận nhân dân đều ủng hộ”, “chỉ một bộ phận quần chúng là không đồng tình”, hay như là “rơi vào một bộ phận cán bộ”, hay nữa là “một bộ phận Đảng viên còn yếu kém”.
Cháu được biết rằng trên cơ thể người có rất nhiều bộ phận khác nhau như: tay, chân, đầu, tim, gan, tóc, hay… cái răng sâu. Khi dùng từ “bộ phận” không hiểu người ta muốn nói đến cái RĂNG SÂU hay cái ĐẦU? Nếu mà là cái RĂNG SÂU thì có thể đi nhổ trồng lại cái răng giả, chứ cái ĐẦU mà yếu kém, thiếu năng lực hay thoái hóa biến chất thì coi như UNG THƯ rồi!
Cháu nghĩ nên sai ở đâu nói chỗ đó, tên gì nêu ra, đơn vị nào nói ra, sai ít thì sửa, sai nhiều thì bỏ, chứ nói chung chung vậy mà mỗi ngày mỗi “bộ phận” như vậy chắc cơ thể hết chỗ để đau nữa rồi!
2. Cháu xin được “thôi chức” để làm người dân.
Bấy lâu nay cháu được làm “ông chủ” mà cảm thấy ghen tỵ, xấu hổ với mấy “đầy tớ” của mình lắm. Chủ gì đâu mà bị nạt nộ ăn hiếp không à. Hình như chỉ trong các văn bản hay tuyên truyền các “đầy tớ” mới tự nhận là “đầy tớ” và nói cháu là “ông chủ”, chứ vào thực tế thì quên liền. Mà cái cháu và mọi ông chủ khác cần là thực tế chứ không phải trên giấy tờ.
Hơn nữa chúng ta đang ở thời đại văn minh, đang là đất nước theo xã hội chủ nghĩa mà cứ chủ tớ như thế cháu thấy không ổn. Ngày trước Cụ Hồ kính mến của chúng ta nói như vậy là để làm gương cho cán bộ và trong thời kỳ đó nó vậy, chứ bây giờ làm gì có nữa!
Cháu rất muốn hỏi thật các bác ấy đã làm đầy tớ ngày nào chưa mà dám xưng là đầy tớ, không sợ những người đang làm nghề giúp việc họ cười cho sao?
Mà nếu cháu có là ông chủ thật sự của cái đất nước này thì cháu không dại gì mà tuyển đầy tớ kiểu đó.
3. Cháu buồn hai chữ “thống nhất”.
Cháu thường được nghe nói về “đất nước thống nhất”. Nếu nói đất nước thống nhất mà trong khi đó Hoàng Sa đang bị người ta chiếm đóng thì sao thống nhất được?
Cháu thiết nghĩ cơ quan Ngoại giao không nên chỉ khi có chuyện mới tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, mà bình thường trong các diễn văn, các lễ hội, trên các phương tiện truyền thông, phải luôn nhắc nhở cho mọi người dân nhớ mãi rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Thay cho lời kết:
Ngày trước cháu nghe nói đến “kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” của người lớn đối với lớp trẻ, nay cho cháu thêm một từ nữa mà cháu từng được học đó là “làm gương”. Tất cả đều trống vắng nếu không làm gương. Được soi vào tấm gương sáng đó là hạnh phúc của chúng cháu.
Chúc các cô, các bác sức khỏe, mỗi người mỗi việc đưa đất nước và dìu dắt lớp trẻ chúng cháu tiến lên.
H. H. H.
HO Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Kỳ án Đặng Nam Trung: Tòa xử sơ thẩm lần thứ 6
(PL)- Dự kiến ngày 8-12, TAND TP.HCM sẽ xử sơ thẩm lần thứ sáu vụ Đặng Nam Trung, nguyên giám đốc Công ty Đầu tư phát triển du lịch và khoa học kỹ thuật thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia (IDC) bị truy tố về tội tham ô tài sản.
NhưPháp Luật TP.HCM từng phản ánh, theo hồ sơ, năm 1998 với tư cách là giám đốc IDC, bị cáo Trung đã ký hợp đồng mua máy sàng nghiền đá trị giá hơn 997.000 USD của một công ty nước ngoài. Sau đó, bị cáo đề nghị một đại diện công ty này nâng khống 25% giá trị hợp đồng thành hơn 1,3 triệu USD để bỏ túi hơn 300.000 USD chênh lệch (khoảng hơn 4 tỉ đồng). Để lấy được tiền, bị cáo nhờ đối tác ký khống hai giấy biên nhận với nội dung IDC thanh toán tiền mua máy nghiền đá cho đối tác. Sau đó, bị cáo chỉ đạo kế toán của IDC làm phiếu chi khống và lập hợp đồng khống cho IDC vay vốn của bị cáo. Cuối cùng, bị cáo chỉ việc ký duyệt rồi chỉ đạo phòng kế toán chi tiền trả nợ cho mình. Tuy nhiên, mới dùng thủ đoạn trên lấy được hơn 1,3 tỉ đồng thì bị cáo đã bị bắt.
Vụ án lập nên nhiều kỷ lục vì tính từ ngày bị bắt đến phiên xử sơ thẩm lần này, bị cáo Trung đã trải qua hơn bảy năm trong vòng tố tụng với hơn 43 lần cơ quan điều tra gia hạn tạm giam. Vụ án đã có chín bản kết luận điều tra, sáu lần trả hồ sơ bổ sung, bảy bản cáo trạng khác nhau. TAND TP.HCM đã năm lần phải hoãn xử sơ thẩm vì nhiều lý do khác nhau. Đến phiên phúc thẩm, TAND Tối cao tại TP.HCM cũng phải hoãn xử hai lần, một lần tuyên hủy án.
T.TÙNG
LÒNG TIN



Nhìn cán cân công lý
Ta thấy, lòng quặn đau
Bị bẻ cong, còn đâu
Bởi mấy người, cầm nó

Ăn cơm dân, học có
Mà họ, chẳng sỉ liêm
Miễn là, vét được tiền
Trên, thượng tôn pháp luật

May mà, chỉ “bộ phận”
Trong sạch, vẫn phần nhiều
Chống tham nhũng, làm liều
Có thuốc, DÂN đặc trị...

*Viết hồi 9:20 ngày 08 tháng 12 năm 2009 tại 11 PĐC; tg Vũ Tản Hồng.

Hôm nay ngày 08/12/2009 hồi 9:41 Trời ngày hôm nay đẹp, hửng nắng. Bầm sinh hoạt buổi sáng như mọi ngày, hai vệ sỹ cũng bình thường. 8:57 Tuyết điện ra mình gọi lại, cháu cho biết đã nhận được tin nhắn chiều hôm qua của chú, mình trao đổi thêm mấy việc nhằm ổn định gia đình cháu, tâm trạng cháu vui...Sau khi xem các bài mình lưu, đăng lên Bolg cùng bài thơ để áp dụng cho cuộc sống AN BÌNH
Những khu đô thị 'nhà quê' giữa thủ đô

Dưới cao ốc là quán cóc, chợ cóc, vườn rau mini hay những bãi đỗ xe tràn lòng đường... Hàng loạt khu đô thị mới ở Hà Nội đang quay lại với hình ảnh nhếch nhác của khu tập thể cũ.
> Hà Nội tổng kiểm tra các khu đô thị mới

Mới đưa vào sử dụng được khoảng 4 năm và dù vừa được sơn sửa, khu đô thị Nam Trung Yên (quận Cầu Giấy) vẫn không giấu được sự xuống cấp. Màu sơn loang lổ với nhiều khoảng tường bong nứt.

Quanh các khối nhà 3B, 11B là những tuyến đường dang dở, nhiều hố ga không nắp. Khuôn viên và các ô cây xanh bị các hộ dân tận dụng làm vườn rau. Hàng chục người dân thành thị bỗng chốc trở thành nông dân chính hiệu với công việc hàng ngày là tưới bón, chăm bẵm từng cây rau, quả cà.


Hình ảnh "nông dân" canh tác ngay giữa các khu đô thị mới ở Hà Nội. Ảnh: N.H.

Ngay trong các căn hộ, hàng loạt "siêu thị mini", quán ăn bình dân, quán cóc, hàng cắt tóc gội đầu... đua nhau mọc lên. Cảnh buôn bán, giao nhận hàng diễn nhộn nhịp khác hẳn hình ảnh những khu dân cư cao tầng yên tĩnh và khép kín thường thấy.

Ông Nguyễn Văn Toản, chủ "siêu thị" đắt hàng nhất ở tầng 8 khu nhà 11B cho biết, gia đình ông mở cửa hàng đã hơn 3 năm. Phần lớn diện tích căn hộ chất đầy hàng hóa. Trừ thực phẩm tươi sống, người dân nơi đây có thể tìm thấy hầu hết các nhu yếu phẩm.

Cách đó không xa, trên vỉa hè cạnh tòa nhà nhà N05, N06 khu đô thị Trung Hòa - Nhân Chính là khu chợ cóc. Thượng đế vào "chợ" không cần gửi xe máy, vê ga xe máy từ hàng này sang hàng khác chỉ trỏ chọn thức ăn.

Sau mỗi phiên chợ, dưới mặt đất đầy rác và những vũng nước nhỏ từ các hàng rau xanh, thịt cá. Phía trên các tòa nhà mới sử dụng ít năm là hàng loạt "lồng chim", "chuồng cọp" với đủ hình dáng, màu sắc. Dọc các tuyến đường trong khu đô thị, những bãi đỗ xe đã quá tải khiến ôtô, xe máy buộc phải đỗ tràn khắp vỉa hè, chiếm cả lòng đường...


Cảnh giao nhận hàng tại siêu thị mini ở tầng 8 của gia đình ông Nguyễn Văn Toản. Ảnh: N.H.

Theo người dân tại các khu đô thị mới, những hình ảnh mất mỹ quan như vậy không còn là chuyện hiếm. Dẫn ra một loạt các khu tái định cư cũng như những khu đô thị mới được cho là hiện đại, chủ "siêu thị" Nguyễn Văn Toản cho rằng các nhà đầu tư đã thiết kế, thi công kiểu "ăn xổi". Các tòa nhà được xây hơn chục tầng nhưng không có tầng hầm. Vì thế, tầng một vốn là vị trí thuận lợi để làm khu dịch vụ, buôn bán lại thành chỗ trông xe, vừa lãng phí vừa gây khó khăn cho sinh hoạt của người dân.

"Chúng tôi muốn được thuê ki-ôt ở tầng một chứ cũng đâu muốn buôn bán ngay trong tòa nhà như thế này", ông Toản bày tỏ.

Ông chủ này kiến nghị ban quản lý khu đô thị và thành phố sớm quy hoạch khu dịch vụ ở những lô đất lân cận để sinh hoạt của người dân đi vào nề nếp đồng thời tạo công ăn việc làm cho những hộ tái định cư nơi đây.


Những bãi đỗ xe chiếm hết vỉa hè, lòng đường ở đô thị Trung Hòa - Nhân Chính. Ảnh: N.H.

Trong khi đó, theo bà Nguyễn Thị Thủy (khu Trung Hòa - Nhân Chính), chợ cóc mọc cạnh khu đô thị mới là tất yếu khi hàng ngàn hộ dân bị nén vào những khối nhà cao tầng san sát mà không quy hoạch chợ dân sinh hay siêu thị. Theo bà, không chỉ có chợ hay siêu thị, hàng loạt công trình cần thiết khác như bệnh viện, nhà trẻ, sân chơi... đều bị bớt xén tại những khu đô thị được cho là hiện đại, đắt tiền ở thủ đô.

"Nếu thành phố tiếp tục xây dựng các khu tái định cư, khu đô thị thiếu đồng bộ, sự nhếch nhác, xuống cấp nhanh chóng không thể nào tránh khỏi", bà Thủy nói.

Từ 7/12, đoàn kiểm tra liên ngành của thành phố Hà Nội sẽ tiến hành kiểm tra 34 dự án khu đô thị mới, khu nhà ở nhằm phát hiện sai phạm về quy hoạch, hạ tầng xã hội - kỹ thuật...Theo Phó chủ tịch UBND thành phố Phí Thái Bình, việc kiểm tra sẽ chú trọng các khu đô thị mới trên 20 ha.

"Nhiều đô thị hiện nay vẫn chưa được hạ ngầm các tuyến cáp viễn thông, điện lực... trong khi quy định đã yêu cầu phải hạ ngầm những tuyến này. Một số khu đô thị không đảm bảo vệ sinh môi trường, thiếu chợ, trường học", ông Bình cho biết.

Nguyễn Hưng
Tướng Trần Văn Thanh được giảm 6 tháng án tù treo

Đề nghị tuyên vô tội với nguyên chánh thanh tra Bộ Công an Trần Văn Thanh của VKS Tối cao đã không được tòa phúc thẩm chấp nhận. TAND Tối cao tiếp tục tuyên ông Thanh phạm tội, nhưng giảm án tù treo từ 18 xuống còn 12 tháng.
> Cựu chánh thanh tra Bộ Công an được kháng nghị xử vô tội


An ninh phiên xử được thắt chặt.

Sáng 7/12, TAND tối cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa phúc thẩm vụ án lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, có liên quan ông Trần Văn Thanh, thiếu tướng - nguyên chánh thanh tra Bộ Công an.

Bị cáo Trần Văn Thanh không thể đến phiên xử phúc thẩm với lý do sức khỏe yếu. Tòa chấp nhận việc này, cho xử vắng mặt. Có 3 luật sư tham gia bào chữa cho ông Thanh.

4 tháng trước, tại phiên sơ thẩm mở tại TAND Đà Nẵng, cho rằng ông Thanh có vai trò chủ mưu, xúi giục, kích động các ông Dương Tiến (nguyên trưởng đại diện Báo Công An TP HCM tại Hà Nội), Đinh Công Sắt (nguyên cán bộ công an Đà Nẵng), Nguyễn Phi Duy Linh soạn thảo, viết đơn khiếu nại tố cáo sai sự thật..., tòa tuyên phạt ông Thanh 18 tháng tù treo, 36 tháng thử thách.

Các bị cáo Dương Tiến bị phạt 17 tháng 5 ngày, trả tự do ngay tại tòa; Đinh Công Sắt 12 tháng tù treo, Nguyễn Phi Duy Linh 36 tháng tù.

Không đồng ý với các phán quyết trên, ông Thanh cùng Nguyễn Phi Duy Linh và Dương Tiến đã có đơn kháng cáo đề nghị Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng xử theo thủ tục phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ vụ án và tuyên bố không phạm tội.

Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện Phúc thẩm II) cũng đã kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị tòa phúc thẩm tuyên vô tội với ông Thanh.


Ông Dương Tiến và Duy Linh.

Tại phiên phúc thẩm, sau một ngày xét hỏi, tranh tụng gay gắt, tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đã tuyên bác bỏ toàn bộ kháng cáo của các bị cáo Trần Văn Thanh, Nguyễn Phi Duy Linh, Dương Tiến, bác bỏ kháng nghị của Viện Phúc thẩm II.

HĐXX tuyên y án sơ thẩm và mức án phạt tù đối với ông Dương Tiến và Nguyễn Phi Duy Linh.

Riêng ông Trần Văn Thanh, xét nhân thân và quá trình cống hiến công tác trong ngành công an, tòa phúc thẩm tuyên có tội như án sơ thẩm, nhưng giảm một phần mức án phạt từ 18 tháng còn 12 tháng, cho hưởng án treo; giảm 36 tháng thử thách xuống còn 24 tháng và giao về Văn phòng Bộ Công an quản lý, giáo dục.

Tin và ảnh: Trà Bang

- Cử tri TP.HCM mệt mỏi với việc lặp đi lặp lại những kiến nghị của mình về ô nhiễm, kẹt xe, ngập nước... từ kỳ họp này sang kỳ họp khác mà không thấy biện pháp giải quyết rốt ráo.


Kẹt xe ở TP.HCM
Tại kỳ họp thứ 16 HĐND TP.HCM (đầu tháng 7 vừa qua), cử tri TP.HCM kiến nghị khá nhiều vấn đề liên quan đến các lĩnh vực: giao thông vận tải, quy hoạch - kiến trúc, đất đai môi trường, chống ngập nước; xây dựng - bồi thường và giải phóng mặt bằng...

Trước kỳ họp thứ 17 của HĐND TP khai mạc hôm nay (8/12), báo cáo về việc giải quyết các kiến nghị đặt ra trong kỳ họp trước của cử tri, UBND TP cho rằng hầu hết các sở, ngành có liên quan "đã tập trung giải quyết và có báo cáo kết quả cho các tổ đại biểu HĐND để trả lời cho cử tri theo quy định".

Tuy nhiên, theo nhiều cử tri, việc giải quyết này chưa thỏa đáng.

Chưa thể gọi là "giải quyết"

Trả lời cho kiến nghị của cử tri về việc "UBND TP cần có biện pháp kiểm tra, giám sát việc triển khai các công trình thoát nước trên các tuyến đường nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công, giảm nạn kẹt xe và đảm bảo mỹ quan đô thị", cách giải quyết của UBND TP được thể hiện trong văn bản như sau: "TP đang tập trung triển khai thực hiện nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật trong điểm, trong đó có các dự án thoát nước sử dụng nguồn vốn ODA. Các dự án này phải thực hiện theo tiến độ cam kết với nhà tài trợ".

TP cũng nói rõ đã "yêu cầu triển khai thi công 3 ca/ngày và tổ chức nhiều mũi thi công để đẩy nhanh tiến độ; giao Sở Giao thông - Vận tải tăng cường kiểm tra, đôn đốc (…) nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, tăng cường lực lượng kiểm tra xử lý đảm bảo an toàn giao thông, an toàn lao động…".

Không thấy có thêm thông tin nào về việc Sở Giao thông - Vận tải đã thực hiện chỉ đạo của UBND TP đến đâu, tiến độ thi công có được đẩy nhanh hơn chút nào so với trước khi cử tri phản ánh hay không, hoặc đã có nhà thầu nào bị xử phạt vì không làm đúng yêu cầu của UBND TP chưa, mức chế tài ra sao.

Hàng ngày, người dân vẫn chứng kiến tận mắt không ít lô cốt nằm nghênh ngang trên đường mà bên trong, vắng bóng công nhân làm việc. Như vậy, yêu cầu của UBND TP về việc nhà thầu phải bố trí thi công 3 ca/ngày liệu có được thực hiện triệt để? Nếu đã không được thực hiện, UBND TP lại thiếu chế tài thì không thể nói đã giải quyết kiến nghị của cử tri.

Tương tự, phần báo cáo về kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri quận Tân Phú "đề nghị UBND TP cho biết vì sao chưa cho phép thực hiện quảng cáo trên xe buýt để giảm gánh nặng cho ngân sách thành phố" cũng khiến cử tri thêm bức xúc.

Báo cáo ghi: "UBND TP chỉ mới cho phép thí điểm quảng cáo bên trong xe buýt. Việc quảng cáo bên ngoài cần có thời gian tiếp tục nghiên cứu cụ thể, tránh ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị và trật tự an toàn giao thông. Mặt khác, số lượng lớn xe buýt hiện nay đã hết niên hạn sử dụng, đang trong thời gian chờ đóng mới thay thế và UBND TP giao Sở Giao thông - Vận tải tiếp tục nghiên cứu báo cáo để có chỉ đạo cụ thể".

Vấn đề là "tiếp tục nghiên cứu" đến bao giờ trong khi ý kiến này đã được Sở Giao thông công chính trước đây, nay là Sở Giao thông - Vận tải, đề xuất từ cách đây vài năm?

Quan trọng hơn, rốt cuộc quan điểm của TP ra sao khi mới đây, chính các bộ, ngành chuyên môn đã nói rõ việc quảng cáo trên xe buýt là không vi phạm luật; còn việc làm thế nào để đảm bảo mỹ quan đô thị, trật tự an toàn giao thông là do chính TP quy định thông qua các biện pháp chế tài của mình trong khuôn khổ luật pháp.

Nếu có thể gọi đấy là cách giải quyết kiến nghị của cử tri thì rõ ràng "cách giải quyết" mà TP đề cập trokhông hề thỏa đáng.

Ở một chừng mực nào đó, cử tri ghi nhận thái độ nghiêm túc của UBND TP và các sở ngành có liên quan trong việc lắng nghe kiến nghị của họ, suy nghĩ và trả lời, bằng cách này hay cách khác.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức độ này thì chưa thể gọi là đã "giải quyết kiến nghị". Bởi "giải quyết" bao hàm những giải pháp cụ thể, tạo chuyển biến. Nếu chưa đạt được điều đó, thì nói theo cách của "nghị viện", mọi việc chỉ mới dừng ở mức "giải trình" mà thôi.

Quyết định chứ đừng chỉ giải thích

Trong mắt cử tri, khi lãnh đạo chính quyền nhưng không giải quyết tới nơi tới chốn mọi việc thì coi như không làm tròn trách nhiệm.

Đại biểu Nguyễn Đăng Nghĩa nói: Tại kỳ họp HĐND TP.HCM lần này, ông cần lãnh đạo các sở, ngành đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết hiệu quả những vấn đề cử tri bức xúc chứ không phải chỉ giải trình vấn đề khi bị chất vấn.

Ý kiến này của ông Nghĩa chắc cũng là đòi hỏi của cử tri, những người đã mệt mỏi với việc lặp đi lặp lại những kiến nghị của mình về giải quyết ô nhiễm, kẹt xe, ngập nước; về những trì trệ, ách tắc trong công tác điều hành, quản lý đô thị của chính quyền TP từ kỳ họp này sang kỳ họp khác mà không thấy biện pháp giải quyết rốt ráo.

Sự "thất hứa" - có thể tạm gọi như vậy - của chính quyền và các cơ quan chức năng đã bào mòn niềm tin của người dân.

Cũng không thể không nói đến trách nhiệm của HĐND, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của địa phương.

Hơn ai hết, các đại biểu HĐND chính là người có đủ tư cách, thẩm quyền trong việc tạo áp lực và giám sát hoạt động của chính quyền, của sở ngành nhằm buộc họ phải giải quyết rốt ráo bức xúc của cử tri. Vai trò và thẩm quyền đó của đại biểu cần đuợc phát huy tối đa chứ không phải và không nên chỉ dừng lại trong khuôn viên nghị trường và không gian các kỳ họp.

Khi các kiến nghị chính đáng của cử tri chưa được các cấp, các ngành quan tâm giải quyết, đại biểu HĐND cũng chưa thể nói mình đã hoàn thành sứ mạng.

Trần Vân

HỒN TẦU DA VIỆT
live4vn.com



TNc: Không thể tin được lại có chuyện như thế này. Các bạn hãy quan sát kỹ hai tấm ảnh dưới đây. Ảnh 1 là áp phích dựng tại Ngã tư Phú Nhuận tp Hồ Chí Minh, trên đó có in các binh lính tề chỉnh dưới cờ Quyết thắng. Ảnh 2 là chụp các binh lính Trung Quốc sẵn sàng tay súng. Bạn có thấy các khuôn mặt hai tấm hình này y hệt nhau không ? Có phải đây là sự thật hay ảnh được ghép ngụy tạo. Nhưng cũng cần cảnh giác vì gần đây rất nhiều sơ suất như in bản đồ VN không có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa .






Áp phích của ta



Ảnh quân đội TQ

Địa điểm dựng áp phích Ngã tư Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh
Nguồn: http://live4vn.com/showthread.php?p=12896#post12896


Tin mới nhất:
Một bạn đọc sau khi coi tin nầy liền xách xe chạy tới hiện trường và thông báo như sau: “tấm tranh cổ động này là xuất phát từ dĩa mềm của Trung tâm triển lãm TP.HCM giao về cho Phòng VHTT Q.Phú Nhuận để thực hiện. Hiện nay các cán bộ hưu trí đang làm dữ lắm. Nó đã được gở xuống rồi. GĐ Sở VHTT TP.HCM Nguyễn Thành Rum có bằng TS Sử học” (Theo anhbasam.com)

AI BẢO LƯƠNG TA LÀ THẤP ?
Trần Nhương




Ngất ngưởng lương ông một tỷ đồng
Về hưu thứ trưởng nhất là ông
Cũng là Nhà nước sao ông sướng
Tài chính bộ Tiền có biết không ?
Xã hội công bằng công gì thế
Bà con cấy gặt có đau lòng...?

Thơ bình của Trương tuần

Bài 1: Từ chuyện Tổng Giám đốc SCIC hưởng lương gần tỷ đồng/năm: Lương hay lậu?

Lương kỷ lục

Năm 2007, ông Trần Văn Tá, Thứ trưởng Bộ Tài chính được nghỉ hưu theo chế độ. Nhưng sau đó, ông lại không được nghỉ hưu mà được giao chức vụ Tổng giám đốc Tổng Cty Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).

Trong một buổi tiếp nhận phần vốn Nhà nước tại 3 doanh nghiệp thuộc Bộ NN&PTNT năm 2008, Tổng giám đốc SCIC Trần Văn Tá từng phát biểu đại ý, mặc dù đến tuổi nghỉ hưu nhưng ông vẫn chưa được nghỉ mà phải tiếp tục trọng trách được giao là quản lý một doanh nghiệp với mô hình mới với nhiều khó khăn, phức tạp.

Khi đó, có người bình luận, chắc phải tâm huyết lắm ông Tá mới nhận nhiệm vụ khó khăn này. Nhưng qua kết quả kiểm toán vừa qua, nhiều người té ngửa, bởi mức lương mà ông Tá được nhận tới 942 triệu đồng/ năm, cao hơn 10 lần lương của tổng giám đốc, chủ tịch các tập đoàn kinh tế (lương tổng giám đốc tập đoàn chỉ từ 8,5 đến 8,8 x 650.000 đồng, khoảng 6 triệu đồng/tháng).

Trích tienphongonline
Bản cóp từ http://vn.myblog.yahoo.com/phamvietdaonv

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét