Thứ Năm, 20 tháng 5, 2010

Chào ngày 20/5/2010, nắng lớn

9:00 ngày 20/5/2010 Vào chùa Cầu Trì được Thầy Phương hướng dẫn như sau:

Để tắm phật nhân ngày 08 tháng 4 năm Canh Dần cần tiến hành các bước sau;
Tối nay vệ sinh sạch sẽ SÂN, NHÀ.
Mua vải thay áo cho các NGÀI...KHOẢNG 3m
Chẩn bị một chậu nước hoa THƠM như hoa HỒNG....đặt trên ban thờ
Sáng ngày 8/4/CD lần nữa vệ sinh lại ban thờ, sân, nhà...
Tụng kinh lễ PHẬT ĐẢN sau đó tụng DI ĐÀ, niệm phật: Ngã kim hư mục chư NHƯ LAI. Tỉnh trí trung nghiêm công đức tịnh ngũ trường chúng sinh; lĩnh long cấu.
Nguyện chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Nam mô ni cấu địa BỒ TÁT 3 lần cứ làm như vậy cho đến khi tắm xong thì thôi
Với tượng nhỏ đưa ngài xuống chậu, làm gáo bằng lá BỒ ĐỀ-MÍT...
Chỉ để cho một người tắm, dội từ trên xuống....
ẢM NIỆM NGÀY PHẬT ĐẢN
Như Nguyệt

Mỗi năm đến ngày Phật Đản, nhìn hình tượng đức Phật Sơ Sinh tôi có cảm giác rằng sự kiện lịch sử ấy xảy ra dường như không xa lắm. Mới một ngày nào trong vườn Lâm Tỳ Ni nơi thành Ca Tỳ La Vệ nước Nepal (một vương quốc của Ấn Độ), đức Từ phụ của chúng ta vì lợi ích của chúng sanh mà một lần nữa trở lại cõi đời này với hình ảnh một con người bình thường, một thoáng thời gian mà đã 2625 năm trôi qua, nhưng hình ảnh bậc vĩ đại đó vẫn còn sống mãi với dòng thời gian bất tận, và tồn tại mãi trong con tim của người phật tử chúng ta. 
Hình ảnh đức Phật đản sinh, với một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, Ngài tuyên bố rằng: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", người phật tử bình dân đều cho rằng ý nghĩa câu nói ấy là đức Phật tuyên bố: "Trên trời dưới đất Ngài là một con người duy nhất không ai vượt hơn", thật sự Ngài là một con người mà thế gian không ai vượt hơn, nếu hiểu một cách cạn cợt, và trên văn tự thì ngoại đạo sẽ cho rằng đức Phật chưa đoạn trừ được "Tự ngã", vì còn cho mình là một người không ai sánh bằng. Từ Độc Tôn ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh rằng: "trong vũ trụ bao la này Ngài là một con người bình thường như bao nhiêu người bình thường khác cũng được cấu tạo bằng xương thịt nhưng Ngài không còn chi phối bởi các pháp hữu vi, một con người nhận chân được bản giác thường chân của chính mình", sự hiện thân của Ngài ở thế giới Ta Bà này dùng nhiều phương pháp để cho chúng sinh nhận chân được cái giác tánh vĩnh hằng, vị phật của chính mình, kinh Pháp Hoa gọi là "Tri Kiến Phật", Ngài muốn nhấn mạnh rằng: Bản giác của chúng sinh là một vật thường hằng nhưng chúng sinh vì mong cầu dục lạc mà cái thường chân đó đã bị bỏ quên 
"Một thuở đức Phật tại nước Ba La Nại, nơi vườn Lộc Uyển, bấy giờ có hàng ngàn vị tỳ kheo và chư thiên thần, đều có mặt trong đại hội, tự nhiên một bánh xe pháp luân xuất hiện trước mặt đức Phật và đại chúng. Đức Phật dùng ngón tay của mình chỉ vào bánh xe pháp luân đó và nói rằng: Ta từ vô số kiếp về trước, bị lay chuyển trước danh sắc nên phải chịu vô lượng khổ, nay mọi nghi ái đều đã đoạn tận, giải thoát các kiết sử và lậu hoặc, các căn đã định, sinh tử đã đoạn trừ, không còn luân chuyển trong Ngũ đạo…" (Đại tạng kinh, A hàm bộ cuốn 2, kinh Chuyển Pháp Luân, trang 503) 
Chính vì vậy trên phương tánh giác Ngài vượt xa hơn một con người bình thường như chúng ta, nên Ngài ở trong một niệm mà tròn đầy khắp cả pháp giới thanh tịnh, còn chúng sinh thì trong một niệm khởi dẫy đầy phiền não khổ đau và cứ mãi truy tìm cái dục lạc khổ đau đó, không liễu tri được rằng trong niềm vui tạm bợ ấy đã nảy sinh mầm mống của khổ đau, vì trong "quả" đã hàm tàng cái "nhân" và do "nhân" mà hình thành nên "quả". Điều này chúng ta thấy rõ ở giáo lý Duyên Khởi của Phật giáo "thử hữu cố bỉ hữu, thử vô cố bỉ vô; thử sinh cố bỉ sinh, thử diệt cố bỉ diệt", vì cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không; cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt", sự sự vật vật trùng trùng điệp điệp đều như thế. Nếu chúng ta cho rằng sự hiện hữu của mọi sự vật trên cõi đời này điểm xuất phát của nó là từ "không" hay "có" thì chúng ta lại rơi vào vòng tương đãi, học thuyết của Lão Tử rơi vào trường hợp này, Ngài nói: 
"Phản giả đạo chi động
Nhược giả đạo chi dụng
Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu
Hữu sinh ư vô"
Nghĩa là:
Trở về là cái động của đạo
Yếu nhược là cái dụng của đạo
Mọi vật trong thiên hạ sinh ra từ "có"
Mà "có" lại sinh ra từ "không"
Thế nên những học thuyết của Nho giáo vẫn không được xem là giáo lý giải thoát như Phật giáo. Chính vì vậy, nên suốt chiều dài lịch sử khi thì tồn tại, lúc thì bị xã hội không chấp nhận; nếu được phát triển chăng thì điểm tột cùng của những tư tưởng đó cũng chỉ dạy cho con người trở thành một người tốt trong xã hội tương đương với Ngũ giới của Phật giáo. Trong nền giáo lý trác tuyệt của Phật giáo, những điều đức Phật nói ra hàng ngàn năm trước đây, có những điều mà các nhà khoa học chưa phát hiện thì trong Thánh giáo điển đức Phật đã tuyên bố. Chúng ta không nên nhìn đức Phật bằng cái nhìn khoa học, học vị mà phải nhìn Ngài ở gốc độ giác ngộ thì chúng ta mới nhận ra được sự khác biệt giữa Ngài và những vị giáo chủ, luận chủ của các tôn giáo, học thuyết khác, đó chính là tính ưu việt của đức Từ phụ chúng ta. Khoa học phát triển đến điểm tột cùng của nó, nó vẫn không thoát khỏi những dụng cụ do tri thức phát minh và vẫn phải tiếp tục truy nguyên, tìm tòi…không ngày kết thúc. Còn đức Phật chúng ta bằng kinh nghiệm và chứng đắc thực tiễn nên trong một niệm thanh tịnh Ngài nhìn thấy được Tam thiên đại thiên thế giới. Khi phật giáo Đại thừa phát triển các luận sư đã chứng minh được điều này tức "Nhất niệm tam thiên", Ngài Long thọ nói: "pháp chân thật không điên đảo, các tưởng niệm đã trừ sạch, ngôn ngữ của các pháp đều đã diệt, chúng sinh vô lượng tội đã trừ sạch, chỉ thường trú nơi nhất tâm, khi đạt được trạng thái này thì có thể thấy được Bát nhã" (luận Ma Ha Chỉ Quán). Chúng ta ngày nay nhìn sự vật hiện tượng bằng những tưởng niệm mộng tưởng điên đảo, phan duyên bởi các pháp, nên không thấu triệt được nguồn tâm là thường trú, bất biến, chân như…Nếu dùng tâm này để thấy được con người và sự vật luôn ở trạng thái sinh - trụ - dị - diệt; thành - trụ - hoại - không, thì chúng ta trong một niệm sẽ đầy đủ tất cả tam thiên thế giới, đó là chỗ vi diệu trong những lời dạy của đức Phật, nội dung kinh Pháp Hoa nói rõ đức Phật dùng đại bi tâm mà khai phương tiện để chúng sinh thấy được pháp Ngài nói ra là Diệu Hữu, pháp này làm cho tất cả chúng sinh đều có thể: "Mặc áo Như lai, ngồi tòa Như lai, mặc áo Như lai", có thể về đến chốn Bảo sở. 
Với một hệ thống giáo lý trác tuyệt như vậy đã nuôi dưỡng chúng ta, đã làm cho chúng ta trưởng thành trong chánh pháp. Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con phật trên khắp năm châu bốn bể, hình ảnh một vị hoàng tử đã từ bỏ tất cả những gì cao quý nhất của con người trong đời sống thế gian từ tinh thần lẫn vật chất để đi tìm lý tưởng xuất thế, con đường Ngài tìm ra trãi qua quá trình thực nghiệm và chứng ngộ đã đem lại niềm an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh trên hành tinh này. Nhân ngày kỷ niệm ngày đản sinh của Ngài, chúng ta cùng nhau ôn lại một khía cạnh nào đó trong kho tàng giáo pháp bất tận, để thấy đượ? chân giá trị về lời dạy của Ngài, mà thế gian tôn thờ Ngài là bậc thầy của trời người "Thiên nhơn chi đạo sư". 
"Dung nhan Phật tốt lạ lùng
Hào quang chiếu sáng khắp cùng mười phương
Từ bi oai đức không lường
Ra đời tế độ dẫn đường chúng sinh
Được thấy tướng, lại nghe danh 
Cũng nhờ kiếp trước căn lành trồng sâu 
Thế tôn đủ phép nhiệm mầu 
Làm cho muôn loại cúi đầu quy y" 
Chiều nay: 14:06 PM ra cơ quan sau khi tắm, sân 11 PDC như một cái chảo rang, mình không dám mở cửa sổ vì nóng sân bê tông sau tràn vào, 17:00 vào cụ Ba chuẩn bị cho sáng mai...gọi cho Thảo, Thảo gọi lại thống nhất chiều nay vào chuẩn bị cho ngày mai
20/05/2010 - 12:33 AM

Cha vào tù vì tranh ranh đất với con

Cha phản ứng với quyết định của tòa bằng cách phá hàng rào, hoa màu của con trai.
Mấy năm trước, cha con ông Tỵ ở huyện Vị Thủy (Hậu Giang) tranh chấp ranh đất với nhau. Không thỏa thuận được nên cả hai đành phải kéo ra tòa.
Giận cái ranh, phá rào của con
Vụ việc được hai cấp tòa giải quyết ổn thỏa, xác định được ranh đất thật sự cho hai nhà. Sau đó, căn cứ bản án phúc thẩm, cơ quan thi hành cắm mốc. Tuy nhiên, ông Tỵ vẫn không đồng ý. Khi người con làm hàng rào trong phần đất của mình, ông Tỵ đã nhiều lần ngăn cản. Mạnh tay hơn, ông còn phá bỏ hàng rào, nhổ bỏ cột mốc và chặt phá hoa màu của con trai.
Thấy căng, chính quyền địa phương vội vào cuộc, nhắc nhở, họp dân để yêu cầu ông Tỵ chấp hành nghiêm bản án của tòa. Nhưng dù được nhắc nhở, giáo dục nhiều lần, thậm chí đã bị phạt hành chính, nghiêm cấm ông Tỵ tiếp tục hủy hoại tài sản của con, ông Tỵ vẫn không chấp hành. Ông vẫn ngang nhiên phá hàng rào, cây cối… của con trai.
Người con lại cầu cứu chính quyền vì không chịu nổi cách hành xử của cha. Sau đó, ủy ban huyện đã định giá tài sản thiệt hại, nhận thấy tài sản bị hủy hoại trị giá trên 1,3 triệu đồng. Mặt khác, ông Tỵ cũng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này. Do đó, cơ quan điều tra Công an huyện Vị Thủy đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam ông Tỵ để điều tra về tội hủy hoại tài sản...
Phạm tội hủy hoại tài sản
Xử sơ thẩm, TAND huyện Vị Thủy tuyên phạt bị cáo Tỵ một năm tù treo về tội hủy hoại tài sản. Đồng thời, bị cáo phải chịu thử thách 22 tháng 18 ngày (đã khấu trừ thời hạn tạm giam). Tòa giao bị cáo cho UBND xã nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Theo HĐXX, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đồng thời, bị cáo đã già (70 tuổi) nên tòa không cần cách ly bị cáo mà chỉ phạt nhẹ để giáo dục.
Sau đó, bị cáo kháng cáo toàn bộ án sơ thẩm vì cho rằng bị cáo và người bị hại là cha con nên bị cáo có phá hủy tài sản của con trai cũng không phạm tội. Tòa cấp sơ thẩm buộc tội như trên là oan ức.
Mới đây, TAND tỉnh Hậu Giang xử phúc thẩm vụ án. Tại phiên tòa, HĐXX đã giải thích cho bị cáo rằng việc hủy hoại tài sản hợp pháp của người khác khi chưa được chủ sở hữu đồng ý (cho dù chủ sở hữu có là con cái, cha mẹ ruột đi chăng nữa) là hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi này và chưa hết thời hạn để được xóa án tích. Do đó, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội hủy hoại tài sản.
Cuối cùng, tòa xác định cấp sơ thẩm cũng đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo nên mới tuyên phạt bị cáo mức án một năm tù treo là phù hợp với tính chất phạm tội và nhân thân của bị cáo. Do đó, tòa không chấp nhận kháng cáo, tuyên y án sơ thẩm…

Cha con ai nỡ…
Về góc độ pháp lý thì không có gì phải bàn vì hành vi phá hoại tài sản đã rõ. Nhận định của tòa là xác đáng, không ai có quyền hủy hoại tài sản hợp pháp của người khác cho dù là của con cái, cha mẹ… khi chưa được phép. Đây là bài học để mọi người nhìn nhận đúng cách hành xử của mình, nếu quá lố sẽ bị xử lý hình sự.
Điều đáng buồn hơn chính là tình cảm cha con bị sứt mẻ. Tranh chấp dân sự là quyền của mỗi người nhưng liệu cha con kéo ra tòa có hay không. Sẽ hay hơn nếu trong gia đình thỏa thuận được với nhau, ra tòa là bất đắc dĩ. Nhưng khi đã quyết ra tòa, đã được tòa phán xét thì phải tôn trọng quyết định của tòa. Nếu thấy cấp phúc thẩm sai thì có thể khiếu nại yêu cầu xem xét theo trình tự giám đốc thẩm. Hành vi phá hoại của người cha là đáng lên án, càng đẩy mâu thuẫn cha con lên đỉnh điểm. Người cha phải trả giá cho hành vi vi phạm của mình trước pháp luật nhưng cái gốc rễ là tình cảm gia đình, cha con, đạo lý bị ảnh hưởng… thì có lẽ không chỉ cha mà cả người con cũng phải gánh. Giá như đừng có cái ranh đất ác nghiệt ấy!
Luật sư NGUYỄN THÀNH VĨNH, Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre
SÔNG HẬU


Thái Lan


"Áo đỏ" thiêu rụi trung tâm thương mại lớn nhất Đông Nam Á

(Dân trí) - Sau khi các thủ lĩnh "áo đỏ" đầu hàng, những người biểu tình còn cố thủ lại đã đốt phá nhiều tòa nhà ở khắp Bangkok, trong đó có trung tâm thương mại lớn nhất Thái Lan và cũng là lớn nhất Đông Nam Á, Central World.

Lửa cháy rừng rực ở mặt tiền của Central World.
Lửa cháy rừng rực bốc lên từ Central World tại quận thương mại Rajprasong, nơi người biểu tình đã chiếm đóng trong suốt hơn 2 tháng. Sau khi đốt tòa nhà thương mại này, những người biểu tình "áo đỏ" còn ngăn không cho lính cứu hỏa dập lửa, khi nhắm bắn vào họ. Sau đó, 900 binh sỹ và cảnh sát đã được huy động bảo vệ lính cứu hỏa thực hiện nhiệm vụ dập lửa. Nhưng bên trong Central World, lửa cháy gần như thiêu rụi mọi thứ. 


Cha đẻ của máy rút tiền ATM qua đời

(Dân trí) - John Shepherd-Barron, người được cho là cha đẻ của máy rút tiền tự động ATM, đã qua đời tại Scotland ở tuổi 84 sau một thời gian lâm bệnh.
 

John Shepherd-Barron.
Ông Shepherd-Barron mất tại bệnh viện Raigmore ở phía bắc Scotland hôm thứ 7 tuần trước, giám đốc lễ tang Alasdair Rhind thông báo hôm qua.
Shepherd-Barron từng nói ông nảy ra ý tưởng về các máy rút tiền tự động sau khi không thể rút tiền ở ngân hàng vào những ngày nghỉ cuối tuần. Ông Shepherd-Barron cho biết phát minh của ông lấy cảm ứng từ các máy bán sô-cô-la tự động.
“Tôi nghĩ phải có một cách nào đó để tôi có thể rút tiền của chính mình ở bất cứ nơi nào tại Anh cũng như trên thế giới”, ông Shepherd-Barron cho biết trong một cuộc phỏng vấn năm 2007. “Tôi nghĩ tới các máy bán sô-cô-la tự động nhưng thay thế sô-cô-la bằng tiền mặt”.
Máy rút tiền tự động đầu tiên do ông Shepherd-Barron sáng chế được lắp đặt tại một chi nhánh của ngân hàng Barclays Plc ở khu vực ngoại ô phía bắc London ngày 27/6/1967.
Nhưng khi đó thẻ rút tiền bằng nhựa chưa ra đời, vì thế chiếc máy của ông Shepherd-Barron sử dụng các tờ séc đặc biệt được mã hóa bằng chất hóa học. Các khách hàng đút tờ séc vào máy và sau khi nhập mật khẩu cá nhân họ sẽ rút được các tờ tiền 10 bảng Anh.
Cũng có ý kiến cho rằng, cha đẻ của máy ATM là một người Việt Nam, tiến sỹ Đỗ Đức Cường. Tiến sỹ Cường là người đã theo học ở Đại học Osaka, Nhật Bản. Ông là tác giả của trên 50 phát minh và sáng chế, 20 năm làm việc tại ngân hàng Citibank - Mỹ, chuyên viên cao cấp cho ngành ngân hàng Hoa Kỳ, là Đại sứ thiện chí của Liên Hiệp Quốc. Năm 2003 ông đã trở về nước, làm cố vấn cao cấp cho một ngân hàng tại ViệtNam.
Ban đầu ông Shepherd-Barron định thiết kế mật khẩu cá nhân với 6 con số nhưng sau đó giảm xuống còn 4 sau khi bà vợ Caroline phàn nàn rằng 6 số là quá dài.
“Bà ấy nói bà ấy chỉ nhớ được 4 con số. Vì bà ấy mà tôi đã giảm xuống còn 4 số”, ông Shepherd-Barron nói.
Ông hepherd-Barron được trao Huân chương đế chế Anh (OBE) hồi năm 2004, gần 40 năm sau khi phát minh ra chiếc máy rút tiền tự động này mà người Anh tin rằng đây là ATM đầu tiên trên thế giới.
Theo Hiệp hội công nghiệp ATM, hiện có hơn 1,7 triệu máy rút tiền tự động được lắp đặt trên toàn cầu.
Hiện thế giới vẫn còn những tranh cãi liên quan tới việc ai là người thực sự phát minh ra máy ATM. Chiếc máy ATM đầu tiên trong lịch sử là sản phẩm của ông John Shepherd-Barron. Nhưng một máy rút tiền tự động phiên bản sớm hơn đã được ông Luther George Simjian, một người Mỹ, phát triển và lắp đặt tại ngân hàng City Bank của New York năm 1939. Tuy nhiên, chiếc máy đã bị tháo bỏ cùng năm đó do khách hàng không có nhu cầu sử dụng. Máy rút tiền của ông Shepherd-Barron là máy ATM thực thụ đầu tiên.
An BìnhTheo AP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét