Thứ hai ngày 14/1/2013, tức ngày ba
tháng chạp năm Nhâm Thìn còn 26 ngày nữa đến xuân Quý Tỵ, đêm trời ấm, sáng
trời lạnh, hàn thử biểu báo với 16 độ. Tối hôm qua Kiều Uy Vũ sinh nhật lần 5,
mình xuống nhà bà Tường xem bộ nghế mới, sau 2 ngày nghỉ bà bánh Phú Nhi lại
hoạt động bình thường...
1.
Muốn ăn chung với quỷ sứ thì phải thủ chiếc thìa
dài. Ngạn ngữ Anh.
2.
Cần phải biết rất nhiều để có thể biết nghi ngờ - V.Hochinxki"
3.
"Hiểu biết, phải chăng ta hiểu biết tới
những nguyên tắc và nguyên nhân của sự vật." Lebon .
Quốc hội cần kiểm sát
hoạt động tư pháp Tiền
Phong
> Xem toàn văn Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992
> Toàn văn Chỉ thị của Bộ Chính trị về lấy ý kiến nhân dân sửa đổi Hiến pháp
> Toàn văn Chỉ thị của Bộ Chính trị về lấy ý kiến nhân dân sửa đổi Hiến pháp
TP - Theo bản Dự thảo
Hiến pháp đang được lấy ý kiến nhân dân, chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND là
“thực hành quyền công tố” và “kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Nhiệm vụ thứ hai được nêu rõ hơn ở khoản
3 Điều 112: “bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Theo đó, chức
năng, nhiệm vụ của Viện KSND rất quan trọng, xét trên góc độ phát hiện, xử lý
kịp thời các vi phạm trong hoạt động tư pháp. Với Viện KSND, nhiệm vụ này không
mới (đã được quy định trong Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, xét trên thực tế hoạt
động tư pháp, việc tiếp tục giao cho Viện KSND chức năng “kiểm sát hoạt động tư
pháp” rất cần được xem xét lại.
Thực tế cho thấy
rất nhiều vụ án được xác định oan sai trong thời gian qua, đều có trách nhiệm
của Viện KSND các cấp.
Khá nhiều vụ án
oan sai, Viện KSND là cơ quan chịu trách nhiệm chính, phải đứng ra xin lỗi, bồi
thường cho người bị oan.
Bên cạnh đó, rất
nhiều vụ án hình sự, khi tiếp nhận hồ sơ để chuẩn bị xét xử, những người tiến
hành hoặc tham gia tố tụng tại Tòa án phát hiện nhiều hành vi vi phạm tố tụng,
có cả những hành vi ở mức độ nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Thế nhưng, khi hồ
sơ được trả lại để điều tra bổ sung, kết quả khá phổ biến là những vi phạm tố
tụng đó không được Viện KSND cùng cấp khắc phục và xử lý.
Tình trạng trên
dẫn đến số vụ án phải trả đi trả lại hồ sơ nhiều lần đang chiếm một tỷ lệ lớn;
những vụ án có dấu hiệu oan sai khó có thể xử lý rốt ráo, bởi những vi phạm tố
tụng không có cách nào xử lý cho được.
Có nhiều ví dụ.
Xin nêu một vụ án đã được Tiền Phong đăng tải nhiều kỳ để phản ánh những uẩn
khúc và những vi phạm trong hoạt động tố tụng, đó là vụ án Phạm Đình Tiếng -
nguyên Thiếu tá Công an TP Hà Nội bị tình nghi “nhận hối lộ” (ông Tiếng được
coi là “người bị tạm giam lâu nhất Việt Nam”, hiện đang bị tạm giam năm thứ
bảy, mà chưa có bản án tuyên ông Tiếng có tội hay không có tội).
Người nhà ông
Tiếng đã có đơn tố cáo những vi phạm tố tụng ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng của
một số điều tra viên và lãnh đạo CQĐT, có dấu hiệu của tội phạm “làm sai lệch
hồ sơ vụ án”.
Đơn này được Ủy
ban Kiểm tra trung ương và Đảng ủy Công an trung ương xử lý, bước đầu đã làm rõ
được sai phạm của một Phó thủ trưởng và một số điều tra viên của CQĐT Bộ Công
an. Tuy nhiên, Viện KSND Tối cao - cơ quan cũng nhận lá đơn này - chưa bao giờ
có văn bản trả lời cho người nhà ông Tiếng.
Mới đây, người
nhà ông Tiếng có đơn tố cáo hành vi vi phạm tố tụng ở mức độ nghiêm trọng của
một số kiểm sát viên trong vụ án, gửi đến lãnh đạo Viện KSND Tối cao. Lá đơn
này cũng không được Viện KSND Tối cao hồi âm.
Từ những vụ việc
như vụ án Phạm Đình Tiếng, nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp (bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử), cần được giao cho
Quốc hội.
Về lý thuyết,
Quốc hội vẫn có chức năng giám sát tất cả các hoạt động hành pháp, tư pháp. Vấn
đề là cần một cơ chế cụ thể và khả thi.
Nhiều người cho
rằng, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cần được giao chức năng này, nó cũng tương tự
như kiểm toán được giao cho Quốc hội, tuy chưa có tiền lệ, song lại phù hợp với
những yêu cầu do thực tế đặt ra.
Đinh Anh Tuấn
Người yếu thế tham gia góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Đảm bảo quyền dân chủ, quyền công dân (14/01/2013) | |||||
Mới đây, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) đã khởi động chương trình hỗ trợ các nhóm yếu thế tham gia đóng góp cho sửa đổi Hiến pháp.
| |||||
Bảy nhóm công dân được coi là thiệt thòi hơn hoặc yếu thế hơn, bao gồm người khuyết tật, người có H, lao động di cư, người dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính và chuyển giới, phụ nữ và thanh niên. Do nhiều nguyên nhân xã hội khác nhau, đây là những nhóm công dân cần được sự bảo vệ đặc biệt của Hiến pháp, song cũng là nhóm nhìn chung ít có cơ hội được cất tiếng nói và được lắng nghe. Chính vì vậy, chương trình tham vấn dành riêng cho các nhóm yếu thế là một kênh hiệu quả để phát huy dân chủ và bảo vệ quyền công dân. Theo đó, nội dung hỗ trợ tham vấn sẽ tập trung vào việc đưa các quyền cơ bản của con người theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế đã được Nhà nước Việt Nam công nhận và cam kết thể hiện vào Hiến pháp sửa đổi và củng cố việc bảo vệ và thực thi các quyền đó.
"Hiến pháp chính là nền tảng của xã hội. Để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và nhân văn, nơi các nhóm công dân dù đa số hay thiểu số, thuận lợi hay thiệt thòi đều được bảo vệ, thì rất cần xây dựng được bản Hiến pháp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các nhóm yếu thế tham gia góp ý cho Hiến pháp không chỉ quan trọng đối với chính các nhóm này mà còn cần thiết cho mục tiêu chung của xã hội. Nhận thức vai trò này, chúng tôi sẽ được hướng dẫn những kiến thức căn bản về Hiến pháp cũng như cách thức góp ý cho Hiến pháp, tiếp đó ý kiến của họ sẽ được thu thập một cách có hệ thống để trình lên các cơ quan lập pháp”-TS Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện ISEE khẳng định.
Theo TS Nguyễn Văn Thuận, Thường trực Ban Sửa đổi Hiến pháp 1992, mục đích lấy ý kiến nhân dân trong sửa đổi Hiến pháp chính là thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để cùng nhau thực hiện. Nhân dân là chủ thể xây dựng Hiến pháp vì Hiến pháp là đạo luật gốc cao nhất của mỗi quốc gia. Trong đó, người yếu thế cũng là một chủ thể, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Mọi ý kiến đóng góp của người dân đều được lắng nghe trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp”.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đinh Xuân Thảo cũng cho rằng: Việc lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp không loại trừ bất cứ đối tượng nào, không phân biệt gái, trai, giàu nghèo... Trong xã hội, có những đối tượng thiệt thòi, khó khăn, họ cần có tiếng nói của mình. Những người yếu thế đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp cũng chính là thể hiện trách nhiệm của một công dân.
Lê Bảo
| |||||
Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris (27-1-1973 – 27-1-2013) (14/01/2013) |
LTS: Ngày 27-1-2013, chúng ta kỷ niệm 40 năm Ngày ký Hiệp định Paris mở đường cho việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên toàn cõi Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ ấy, có nhiều mốc son; một trong những mốc son đáng được ngợi ca chính là cuộc đối đầu giữa hai nền ngoại giao: Một của Mỹ với dầy dạn kinh nghiệm và một là của Việt Nam còn rất non trẻ. Thế nhưng, cuộc đàm phán kéo dài nhất trong lịch sử ngoại giao Mỹ và Việt Nam trong thế kỷ XX lại ghi danh người chiến thắng là Việt Nam. Từ số báo này, chúng tôi khởi đăng loạt bài viết nhân 40 năm Hiệp định Paris. |
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam Xuân Mậu Thân 1968, Tổng thống Mỹ L. Johnson buộc phải xuống thang cuộc chiến tranh phá hoại bằng hải quân và không quân ở Miền Bắc và đề nghị tiến hành đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH). "Ngày mồng 2 Tết Mậu Thân sau một hôm nghỉ lễ, vừa tới cơ quan, mấy anh em chúng tôi được Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh triệu tập và cho biết: Các cậu phải chuẩn bị tính chuyện đàm phán đi!” - ông Nguyễn Khắc Huỳnh, thành viên của đoàn đàm phán VNDCCH nhớ lại.
Toàn cảnh Hội nghị Paris
Lập các tổ công tác, chuẩn bị đàm phán
Thực ra, trước đó, ngay từ cuối năm 1967, đón trước cục diện này, tại Bộ Ngoại giao ta có một tổ chức mới được thành lập gọi là Vụ II. Vụ này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị Đảng ta lúc bấy giờ. Vụ II do Thứ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chuyên trách, ông Phan Hiền làm Vụ trưởng. Đây là một đơn vị đặc biệt có nhiệm vụ nghiên cứu đưa ra lộ trình đấu tranh ngoại giao với Mỹ và chuẩn bị các giải pháp chính trị để kết thúc cuộc chiến tranh. Trong Vụ II có hai tổ công tác là tổ "Giải pháp” và tổ "Bước đi”. Tổ "Giải pháp” do ông Đinh Nho Liêm làm Tổ trưởng chuẩn bị các kịch bản từ cao đến thấp có thể sử dụng vào thời điểm ký kết Hiệp định tùy sự so sánh lực lượng lúc ấy. Còn tổ "Bước đi” do ông Võ Văn Sung làm Tổ trưởng. Tổ này chịu trách nhiệm nghiên cứu lộ trình kết hợp đàm phán ngoại giao với các bước đấu tranh quân sự trên chiến trường trong những năm 1968 - 1970. Tổ "Bước đi” là đầu mối tập trung nhiều điều cơ mật từ chiến lược đến cụ thể, cả về quân sự, chính trị và ngoại giao, vì vậy chúng tôi làm việc theo một quy chế giữ bí mật nghiêm ngặt nhất, nhằm đảm bảo tính chất bất ngờ và hiệu quả cao trong các đợt "Tấn công ngoại giao” của ta.” - ông Võ Văn Sung kể lại những ngày tháng ấy.
Lại nói về những ngày Tết Mậu Thân năm ấy, ông Huỳnh cho biết, ngay trong ngày 31-3-1968, sau khi Mỹ tuyên bố đơn phương ngừng ném bom, Bộ Chính trị Đảng ta họp để bàn, cân nhắc giữa 3 vấn đề. Nhận, không nhận, nhận thế nào? Sau đó, Bộ Chính trị quyết định không bác, không nhận nhưng nhận mức trung bình tức là nhận tiếp xúc. Cụ thể, nhân dịp Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc ta nhận cử đại diện tiếp xúc với phía Mỹ để bàn chuyện xác nhận việc Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc. Mấy ngày sau đó, nhóm công tác gồm các ông Phan Hiền, Trần Hoàn, Nguyễn Khắc Huỳnh đã thảo luận suốt 1 ngày 1 đêm để có bài trả lời hay nói cách khác là Tuyên bố của VNDCCH. Tuyên bố nói rõ, dù Mỹ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Việt Nam nhưng vì thiện chí hòa bình, Việt Nam sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với phía Mỹ. "Tiếp xúc để xác định việc Mỹ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc trên cơ sở đó bàn các vấn đề liên quan. Chỉ riêng chữ "xác định” chúng tôi cũng mất đứt 3 tiếng để bàn cuối cùng thì tìm ra chữ này. Tức là anh phải chấm dứt ném bom miền Bắc tôi mới bàn chuyện khác lúc đó mới đi vào đàm phán thực sự.” - ông Huỳnh nói.
Bộ trưởng Xuân Thủy phát biểu tại một cuộc họp báo
ở Paris trong thời gian đàm phán
Hai giai đoạn của đàm phán
Đàm phán Paris diễn ra trong 4 năm 8 tháng 16 ngày; đã có tổng cộng 202 phiên họp công khai tại Trung tâm Hội nghị Kleber và 36 phiên họp riêng cấp cao tại nhiều địa điểm khác nhau ở Paris. Trong đó, giai đoạn thứ nhất (còn gọi là diễn đàn thứ nhất) là giữa h ai bên Việt Nam - Hoa Kỳ. Bộ trưởng Xuân Thủy dẫn đầu đoàn VNDCCH và Cố vấn đặc biệt là UV BCT Lê Đức Thọ. Đại sứ Harriman dẫn đầu đoàn Hoa Kỳ. Giai đoạn đầu kéo dài suốt năm 1968 (từ 13-5 đến tháng 10-1968) với 28 phiên họp công khai và 12 cuộc gặp riêng. Tại diễn đàn này, hai bên bàn việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Giai đoạn hai kéo dài hơn 3 năm (25-1-1969 đến 27-1-1973). Đây là giai đoạn giằng co với 174 phiên công khai và 24 phiên họp bí mật; là diễn đàn 4 bên gồm VNDCCH, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; còn bên kia là Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Từ cuối năm 1970 đến năm 1973, ông Võ Văn Sung được điều động sang Paris. Cũng từ năm 1971, Vụ II đổi tên thành CP50. Công khai về mặt ngoại giao, ông Võ Văn Sung là Tổng Đại diện Chính phủ VNDCCH tại Pháp, nhưng nhiệm vụ chính là tham gia vào nhóm do Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ lãnh đạo đàm phán bí mật với đối tác phía Mỹ là ông Henri Kissinger. Ông Lê Đức Thọ là đại diện toàn quyền của lãnh đạo Việt Nam đối với tất cả các cơ quan và các phái đoàn chính thức, các tổ chức thuộc lực lượng kháng chiến hai miền Nam - Bắc Việt Nam tham gia đấu tranh ngoại giao tại Paris. Từ đầu năm 1971 đến cuối Hè năm 1972, nhóm "đàm phán bí mật” do ông Lê Đức Thọ lãnh đạo gồm có ông Xuân Thuỷ - Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH tại Hội nghị bốn bên; các ông Phan Hiền và Võ Văn Sung được giao trách nhiệm theo sát nắm bắt tình hình trong quá trình thảo luận; ngoài ra có ông Nguyễn Đình Phương là phiên dịch cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Cuối năm 1972 có thêm một số nhân sự của CP50 từ Hà Nội sang tham gia vào công việc dự thảo văn bản Hiệp định.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết. Có thể nói đây là một mốc son chói lọi nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước; tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Về mặt ngoại giao, Hiệp định Paris đã kết thúc thắng lợi cuộc thương lượng kéo dài giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau gần 5 năm Hội nghị bốn bên công khai và sau hơn hai năm (1971 – 1973) tiến hành thảo luận thực chất trong cuộc "đàm phán bí mật” giữa đoàn Lê Đức Thọ và đoàn Henri Kissinger. Đây thực sự là việc chưa từng có trong lịch sử thế giới mà ta gọi là "vừa đánh, vừa đàm”. Kết quả cuộc thương lượng đã đáp ứng mong đợi của mọi người; nó làm cho toàn thế giới trút được gánh nặng tinh thần và tâm lý đè trĩu hàng chục năm.
P.V
(Ghi theo lời kể của các ông Võ Văn Sung
và Nguyễn Khắc Huỳnh -Thành viên đoàn
đàm phán VNDCCH)
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét