Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris (27-1-1973 – 27-1-2013) (14/01/2013)


Thứ hai ngày 14/1/2013, tức ngày ba tháng chạp năm Nhâm Thìn còn 26 ngày nữa đến xuân Quý Tỵ, đêm trời ấm, sáng trời lạnh, hàn thử biểu báo với 16 độ. Tối hôm qua Kiều Uy Vũ sinh nhật lần 5, mình xuống nhà bà Tường xem bộ nghế mới, sau 2 ngày nghỉ bà bánh Phú Nhi lại hoạt động bình thường...

1.                       Muốn ăn chung với quỷ sứ thì phải thủ chiếc thìa dài. Ngạn ngữ Anh.
2.                       Cần phải biết rất nhiều để có thể biết nghi ngờ - V.Hochinxki"
3.                       "Hiểu biết, phải chăng ta hiểu biết tới những nguyên tắc và nguyên nhân của sự vật." Lebon .

Quốc hội cần kiểm sát hoạt động tư pháp                      Tiền Phong
TP - Theo bản Dự thảo Hiến pháp đang được lấy ý kiến nhân dân, chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND là “thực hành quyền công tố” và “kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Nhiệm vụ thứ hai được nêu rõ hơn ở khoản 3 Điều 112: “bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND rất quan trọng, xét trên góc độ phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tư pháp. Với Viện KSND, nhiệm vụ này không mới (đã được quy định trong Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, xét trên thực tế hoạt động tư pháp, việc tiếp tục giao cho Viện KSND chức năng “kiểm sát hoạt động tư pháp” rất cần được xem xét lại.
Thực tế cho thấy rất nhiều vụ án được xác định oan sai trong thời gian qua, đều có trách nhiệm của Viện KSND các cấp.
Khá nhiều vụ án oan sai, Viện KSND là cơ quan chịu trách nhiệm chính, phải đứng ra xin lỗi, bồi thường cho người bị oan.
Bên cạnh đó, rất nhiều vụ án hình sự, khi tiếp nhận hồ sơ để chuẩn bị xét xử, những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng tại Tòa án phát hiện nhiều hành vi vi phạm tố tụng, có cả những hành vi ở mức độ nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Thế nhưng, khi hồ sơ được trả lại để điều tra bổ sung, kết quả khá phổ biến là những vi phạm tố tụng đó không được Viện KSND cùng cấp khắc phục và xử lý.
Tình trạng trên dẫn đến số vụ án phải trả đi trả lại hồ sơ nhiều lần đang chiếm một tỷ lệ lớn; những vụ án có dấu hiệu oan sai khó có thể xử lý rốt ráo, bởi những vi phạm tố tụng không có cách nào xử lý cho được.
Có nhiều ví dụ. Xin nêu một vụ án đã được Tiền Phong đăng tải nhiều kỳ để phản ánh những uẩn khúc và những vi phạm trong hoạt động tố tụng, đó là vụ án Phạm Đình Tiếng - nguyên Thiếu tá Công an TP Hà Nội bị tình nghi “nhận hối lộ” (ông Tiếng được coi là “người bị tạm giam lâu nhất Việt Nam”, hiện đang bị tạm giam năm thứ bảy, mà chưa có bản án tuyên ông Tiếng có tội hay không có tội).
Người nhà ông Tiếng đã có đơn tố cáo những vi phạm tố tụng ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng của một số điều tra viên và lãnh đạo CQĐT, có dấu hiệu của tội phạm “làm sai lệch hồ sơ vụ án”.
Đơn này được Ủy ban Kiểm tra trung ương và Đảng ủy Công an trung ương xử lý, bước đầu đã làm rõ được sai phạm của một Phó thủ trưởng và một số điều tra viên của CQĐT Bộ Công an. Tuy nhiên, Viện KSND Tối cao - cơ quan cũng nhận lá đơn này - chưa bao giờ có văn bản trả lời cho người nhà ông Tiếng.
Mới đây, người nhà ông Tiếng có đơn tố cáo hành vi vi phạm tố tụng ở mức độ nghiêm trọng của một số kiểm sát viên trong vụ án, gửi đến lãnh đạo Viện KSND Tối cao. Lá đơn này cũng không được Viện KSND Tối cao hồi âm.
Từ những vụ việc như vụ án Phạm Đình Tiếng, nhiều chuyên gia pháp luật cho rằng chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp (bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử), cần được giao cho Quốc hội.
Về lý thuyết, Quốc hội vẫn có chức năng giám sát tất cả các hoạt động hành pháp, tư pháp. Vấn đề là cần một cơ chế cụ thể và khả thi.
Nhiều người cho rằng, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cần được giao chức năng này, nó cũng tương tự như kiểm toán được giao cho Quốc hội, tuy chưa có tiền lệ, song lại phù hợp với những yêu cầu do thực tế đặt ra.
Đinh Anh Tuấn
Người yếu thế tham gia góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp: Đảm bảo quyền dân chủ, quyền công dân (14/01/2013)
Mới đây, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) đã khởi động chương trình hỗ trợ các nhóm yếu thế tham gia đóng góp cho sửa đổi Hiến pháp. 

   
Bảy nhóm công dân được coi là thiệt thòi hơn hoặc yếu thế hơn, bao gồm người khuyết tật, người có H, lao động di cư, người dân tộc thiểu số, người đồng tính, song tính và chuyển giới, phụ nữ và thanh niên. Do nhiều nguyên nhân xã hội khác nhau, đây là những nhóm công dân cần được sự bảo vệ đặc biệt của Hiến pháp, song cũng là nhóm nhìn chung ít có cơ hội được cất tiếng nói và được lắng nghe. Chính vì vậy, chương trình tham vấn dành riêng cho các nhóm yếu thế là một kênh hiệu quả để phát huy dân chủ và bảo vệ quyền công dân. Theo đó, nội dung hỗ trợ tham vấn sẽ tập trung vào việc đưa các quyền cơ bản của con người theo tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế đã được Nhà nước Việt Nam công nhận và cam kết thể hiện vào Hiến pháp sửa đổi và củng cố việc bảo vệ và thực thi các quyền đó. 

"Hiến pháp chính là nền tảng của xã hội. Để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và nhân văn, nơi các nhóm công dân dù đa số hay thiểu số, thuận lợi hay thiệt thòi đều được bảo vệ, thì rất cần xây dựng được bản Hiến pháp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Chính vì vậy, việc hỗ trợ các nhóm yếu thế tham gia góp ý cho Hiến pháp không chỉ quan trọng đối với chính các nhóm này mà còn cần thiết cho mục tiêu chung của xã hội. Nhận thức vai trò này, chúng tôi  sẽ được hướng dẫn những  kiến thức căn bản về Hiến pháp cũng như cách thức góp ý cho Hiến pháp, tiếp đó ý kiến của họ sẽ được thu thập một cách có hệ thống để trình lên các cơ quan lập pháp”-TS Lê Quang Bình, Viện trưởng Viện ISEE khẳng định. 

Theo TS Nguyễn Văn Thuận, Thường trực Ban Sửa đổi Hiến pháp 1992, mục đích lấy ý kiến nhân dân trong sửa đổi Hiến pháp chính là thể hiện sự đồng thuận của nhân dân để cùng nhau thực hiện. Nhân dân là chủ thể xây dựng Hiến pháp  vì Hiến pháp là đạo luật gốc cao nhất của mỗi quốc gia. Trong đó, người yếu thế cũng là một chủ thể, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Mọi ý kiến đóng góp của người dân đều được lắng nghe trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp”. 

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đinh Xuân Thảo cũng cho rằng: Việc lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp không loại trừ bất cứ đối tượng nào, không phân biệt gái, trai, giàu nghèo... Trong xã hội, có những đối tượng thiệt thòi, khó khăn, họ cần có tiếng nói của mình. Những người yếu thế đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp cũng chính là thể hiện trách nhiệm của một công dân.
Lê Bảo 

Lý Thị Tùng: (xã Tả Phìn – Huyện SaPa- Lào Cai)

Trước đây, tôi không hề biết về Dự thảo Hiến pháp. Hơn nữa ở xã nhiều người cũng không biết nếu góp ý thì gửi cho ai? Chính vì vậy, được mời xuống Hà Nội dự tập huấn tôi rất mừng, dù tiếng Kinh không thạo nhưng đọc chỗ nào không hiểu tôi hỏi lại thật kỹ để về sau này phổ biến cho người dân trong xã. Được phổ biến nội dung về Dự thảo, tôi mới thấy quyền của người dân tộc thiểu số được quy định khá nhiều trong Hiến pháp.

Huỳnh Minh Thảo (Trung tâm Bảo vệ quyền người song tính và đồng tính Việt Nam) 

Hiến pháp hiện nay đã đảm bảo được quyền dân chủ, quyền con người, tuy nhiên vẫn còn những rào cản chưa rõ ràng giữa các khái niệm thế nào là đạo đức và thuần phong mỹ tục, nhất là trong vấn đề giới. Do đó, việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần làm rõ ràng hơn những khái niệm này.

Đỗ Thanh Tịnh (Long Biên - Hà Nội): 

Dù mang trong mình căn bệnh thế kỷ nhưng những người có H vẫn là một con người, chúng tôi muốn được sống hòa nhập với cộng đồng. Chính vì vậy, việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần có những quy định cụ thể, để người có H không bị xã hội phân biệt đối xử. 
“Khai tử” rượu quê không nhãn mác (14/01/2013)
Từ 1-1-2013, Nghị định số 94/2012/NĐ-CP của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu chính thức có hiệu lực. Theo đó, tất cả các loại rượu đều phải có nhãn mác, việc sản xuất rượu phải có giấy phép. Như vậy, các loại rượu đang được nấu thủ công tại các hộ gia đình, làng nghề sẽ bị xử lý nếu thiếu giấy phép sản xuất và nhãn mác.

 

Rượu sản xuất thủ công 
khi đưa ra thị trường tiêu thụ phải có nhãn mác
Ảnh: T.L

Ngộ độc và tử vong do rượu tăng

Số liệu do Cục An toàn Thực phẩm (Bộ Y tế) công bố, trong năm 2012, trên toàn quốc đã xảy ra 164 vụ ngộ độc thực phẩm, làm gần 5.400 người mắc, 33 trường hợp tử vong. Trong đó phải kể đến số người tử vong do ngộ độc rượu chiếm tới 26%. Chỉ tính riêng quý IV-2012, trong 5 ca tử vong vì ngộ độc thực phẩm thì có tới 2 trường hợp do rượu gây nên, chiếm tới 40%. Đa số các trường hợp tử vong là do sử dụng loại rượu không rõ nguồn gốc. Cũng theo Cục An toàn Thực phẩm, hiện cả nước có khoảng 20.000 cơ sở sản xuất rượu nhưng chỉ khoảng 10% công bố tiêu chuẩn chất lượng.

Tuy nhiên, dù những số liệu này luôn được công bố công khai, nhiều người dân vẫn tỏ ra không quan tâm tới nguồn gốc của rượu. Khi có việc, họ sẵn sàng tìm đến các địa chỉ quen và tin tưởng vào lời cam kết của người bán là rượu quê do nhà nấu, đảm bảo chất lượng. Đặc biệt vào thời điểm cuối năm, nhu cầu sử dụng rượu của người dân tăng cao, càng làm tăng nguy cơ ngộ độc rượu. Bởi thế, Nghị định 94 ra đời là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ, hướng tới đảm bảo sức khỏe cho người dân.

Theo đó, Điều 12 của nghị định quy định rõ, tổ chức, cá nhân sản xuất rượu thủ công để bán cho các doanh nghiệp có giấy phép sản xuất rượu để chế biến lại rượu phải đăng ký với chính quyền địa phương tại nơi sản xuất. Khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ, tổ chức, cá nhân cần xuất trình hợp đồng mua bán rượu cho các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp bị kiểm tra. Về xử lý vi phạm, Điều 24 của nghị định có ghi, các tổ chức, cá nhân vi phạm, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Vẫn mù mờ thông tin

Quy định là thế, nhưng ghi nhận trên thực tế tại một số cơ sở sản xuất rượu, cả người bán lẫn người mua đều tỏ ra không để tâm tới thông tin này. Một chủ cơ sở sản  xuất rượu ở huyện Thanh Trì (Hà Nội) cho biết, việc nấu rượu của gia đình là tập tục truyền đời và vẫn đang diễn ra hàng ngày. Những dịp lễ tết, ma chay, cưới hỏi, khách có nhu cầu đặt thì nhà mới nấu với số lượng nhiều, còn lại chỉ sản xuất nhỏ bán lẻ quanh làng, xã. Thế nên, dù biết tới quy định phải đăng ký kinh doanh, song biết thì vẫn... để đấy!

Lập 6 đoàn thanh, kiểm tra liên ngành công tác ATVSTP
UBND TP. Hà Nội vừa cho biết, từ nay đến hết 31-3, 6 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành do lãnh đạo các Sở Y tế, Công thương, Nông nghiệp và PTNT làm trưởng đoàn sẽ thanh tra, kiểm tra việc triển khai, thực hiện và kết quả công tác đảm bảo ATVSTP dịp Tết Dương lịch, Tết Nguyên đán và Lễ hội năm 2013 trên địa bàn thành phố tại các quận, huyện, thị xã. Đồng thời, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về ATVSTP tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chế biến, tiêu thụ thực phẩm trên địa bàn, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định của pháp luật về VSATTP.
 Không chỉ người nấu rượu, nhiều người mua rượu cũng không hề lưu tâm tới việc rượu có được gắn nhãn mác hay không. Tại một số quán ăn bình dân trên địa bàn Hà Nội, những chai rượu quê vẫn được bán công khai khi khách có nhu cầu. Loại rượu này thường đóng trong những chai volka nhỏ, với giá khoảng 25.000 đồng/chai, được khá nhiều người ưa thích do vị ngon và giá cả hợp lý. Theo đội quản lý thị trường số 1, TP. Sơn La, việc xử lý chắc chắn sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là... bất khả thi! Những cơ sở buôn bán lớn thì thường đã thực hiện việc đăng ký kinh doanh, chỉ còn lại các hộ sản xuất nhỏ, lẻ. Trong các bản người dân nấu rượu, khi gặp đoàn kiểm tra họ có thể viện nhiều lý do như phục vụ mục đích chăn nuôi, dùng cho nhu cầu gia đình. Lực lượng kiểm tra mỏng lại thiếu quy định hướng dẫn cách thức xử lý, cũng như mức xử phạt còn rất chung chung nên bước đầu chỉ có thể là tuyên truyền để nghị định đến với người dân.

Đó là chưa kể ở một số vùng cao, các sản phẩm rượu đã trở thành đặc sản vùng miền, tạo thành một nét văn hóa, một tập tục khó thay thế. Lấy ví dụ, những hộ gia đình người Mông với đặc sản rượu ngô Mộc Châu (Sơn La), rượu ngô Bản Phố (Lào Cai)... hoặc rượu Mẫu Sơn do người Dao sống trên đỉnh Mẫu Sơn (Lạng Sơn) làm ra, thường nấu cho gia đình hoặc phục vụ du khách du lịch nên việc để họ chủ động thực hiện đăng ký theo quy định... thật khó triển khai!

"Thay vì cấm, bắt buộc phải khai báo nhãn mác thì nên tập trung hướng dẫn người dân làm thế nào để đảm bảo quy trình sản xuất đúng quy định, đảm bảo chất lượng”, một chủ cơ sở rượu đề xuất.
Vũ Phong


Kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris (27-1-1973 – 27-1-2013) (14/01/2013)
LTS: Ngày 27-1-2013, chúng ta kỷ niệm 40 năm Ngày ký Hiệp định Paris mở đường cho việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trên toàn cõi Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ ấy, có nhiều mốc son; một trong những mốc son đáng được ngợi ca chính là cuộc đối đầu giữa hai nền ngoại giao: Một của Mỹ với dầy dạn kinh nghiệm và một là của Việt Nam còn rất non trẻ. Thế nhưng, cuộc đàm phán kéo dài nhất trong lịch sử ngoại giao Mỹ và Việt Nam trong thế kỷ XX lại ghi danh người chiến thắng là Việt Nam. Từ số báo này, chúng tôi khởi đăng loạt bài viết nhân 40 năm Hiệp định Paris.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam Xuân Mậu Thân 1968, Tổng thống Mỹ L. Johnson buộc phải xuống thang cuộc chiến tranh phá hoại bằng hải quân và không quân ở Miền Bắc và đề nghị tiến hành đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH). "Ngày mồng 2 Tết Mậu Thân sau một hôm nghỉ lễ, vừa tới cơ quan, mấy anh em chúng tôi được Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh triệu tập và cho biết: Các cậu phải chuẩn bị tính chuyện đàm phán đi!” - ông Nguyễn Khắc Huỳnh, thành viên của đoàn đàm phán VNDCCH nhớ lại. 


Toàn cảnh Hội nghị Paris
Lập các tổ công tác, chuẩn bị đàm phán

Thực ra, trước đó, ngay từ cuối năm 1967, đón trước cục diện này, tại Bộ Ngoại giao ta có một tổ chức mới được thành lập gọi là Vụ II. Vụ này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị Đảng ta lúc bấy giờ. Vụ II do Thứ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chuyên trách, ông Phan Hiền làm Vụ trưởng. Đây là một đơn vị đặc biệt có nhiệm vụ nghiên cứu đưa ra lộ trình đấu tranh ngoại giao với Mỹ và chuẩn bị các giải pháp chính trị để kết thúc cuộc chiến tranh. Trong Vụ II có hai tổ công tác là tổ "Giải pháp” và tổ "Bước đi”. Tổ "Giải pháp” do ông Đinh Nho Liêm làm Tổ trưởng chuẩn bị các kịch bản từ cao đến thấp có thể sử dụng vào thời điểm ký kết Hiệp định tùy sự so sánh lực lượng lúc ấy. Còn tổ "Bước đi”  do ông Võ Văn Sung làm Tổ trưởng. Tổ này chịu trách nhiệm nghiên cứu lộ trình kết hợp đàm phán ngoại giao với các bước đấu tranh quân sự trên chiến trường trong những năm 1968 - 1970. Tổ "Bước đi” là đầu mối tập trung nhiều điều cơ mật từ chiến lược đến cụ thể, cả về quân sự, chính trị và ngoại giao, vì vậy chúng tôi làm việc theo một quy chế giữ bí mật nghiêm ngặt nhất, nhằm đảm bảo tính chất bất ngờ và hiệu quả cao trong các đợt "Tấn công ngoại giao” của ta.” - ông Võ Văn Sung kể lại những ngày tháng ấy.

Lại nói về những ngày Tết Mậu Thân năm ấy, ông Huỳnh cho biết, ngay trong ngày 31-3-1968, sau khi Mỹ tuyên bố đơn phương ngừng ném bom, Bộ Chính trị Đảng ta họp để bàn, cân nhắc giữa 3 vấn đề. Nhận, không nhận, nhận thế nào? Sau đó, Bộ Chính trị quyết định không bác, không nhận nhưng nhận mức trung bình tức là nhận tiếp xúc. Cụ thể, nhân dịp Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc ta nhận cử đại diện tiếp xúc với phía Mỹ để bàn chuyện xác nhận việc Mỹ hạn chế ném bom miền Bắc. Mấy ngày sau đó,  nhóm công tác gồm các ông Phan Hiền, Trần Hoàn, Nguyễn Khắc Huỳnh đã thảo luận suốt 1 ngày 1 đêm để có bài trả lời hay nói cách khác là Tuyên bố của VNDCCH. Tuyên bố nói rõ, dù Mỹ chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Việt Nam nhưng vì thiện chí hòa bình, Việt Nam sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với phía Mỹ. "Tiếp xúc để xác định việc Mỹ hoàn toàn chấm dứt ném bom miền Bắc trên cơ sở đó bàn các vấn đề liên quan. Chỉ riêng chữ "xác định” chúng tôi cũng mất đứt 3 tiếng để bàn cuối cùng thì tìm ra chữ này. Tức là anh phải chấm dứt ném bom miền Bắc tôi mới bàn chuyện khác lúc đó mới đi vào đàm phán thực sự.” - ông Huỳnh nói. 


Bộ trưởng Xuân Thủy phát biểu tại một cuộc họp báo
ở Paris trong thời gian đàm phán
Hai giai đoạn của đàm phán

Đàm phán Paris diễn ra trong 4 năm 8 tháng 16 ngày; đã có tổng cộng 202 phiên họp công khai tại Trung tâm Hội nghị Kleber và 36 phiên họp riêng cấp cao tại nhiều địa điểm khác nhau ở Paris. Trong đó, giai đoạn thứ nhất (còn gọi là diễn đàn thứ nhất) là giữa h ai bên Việt Nam - Hoa Kỳ. Bộ trưởng Xuân Thủy dẫn đầu đoàn VNDCCH và Cố vấn đặc biệt là UV BCT Lê Đức Thọ. Đại sứ Harriman dẫn đầu đoàn Hoa Kỳ. Giai đoạn đầu kéo dài suốt năm 1968 (từ 13-5 đến tháng 10-1968) với 28 phiên họp công khai và 12 cuộc gặp riêng. Tại diễn đàn này, hai bên bàn việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Giai đoạn hai kéo dài hơn 3 năm  (25-1-1969 đến 27-1-1973). Đây là giai đoạn giằng co với 174 phiên công khai và 24 phiên họp bí mật; là diễn đàn 4 bên gồm VNDCCH, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; còn bên kia là Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Từ cuối năm 1970 đến năm 1973, ông Võ Văn Sung được điều động sang Paris. Cũng từ năm 1971, Vụ II đổi tên thành CP50. Công khai về mặt ngoại giao, ông Võ Văn Sung là Tổng Đại diện Chính phủ VNDCCH tại Pháp, nhưng nhiệm vụ chính là tham gia vào nhóm do Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ lãnh đạo đàm phán bí mật với đối tác phía Mỹ là ông Henri Kissinger. Ông Lê Đức Thọ là đại diện toàn quyền của lãnh đạo Việt Nam đối với tất cả các cơ quan và các phái đoàn chính thức, các tổ chức thuộc lực lượng kháng chiến hai miền Nam - Bắc Việt Nam tham gia đấu tranh ngoại giao tại Paris. Từ đầu năm 1971 đến cuối Hè năm 1972, nhóm "đàm phán bí mật” do ông Lê Đức Thọ lãnh đạo gồm có ông Xuân Thuỷ - Trưởng đoàn đàm phán VNDCCH tại Hội nghị bốn bên; các ông Phan Hiền và Võ Văn Sung được giao trách nhiệm theo sát nắm bắt tình hình trong quá trình thảo luận; ngoài ra có ông Nguyễn Đình Phương là phiên dịch cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Cuối năm 1972 có thêm một số nhân sự của CP50 từ Hà Nội sang tham gia vào công việc dự thảo văn bản Hiệp định.

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết. Có thể nói đây là một mốc son chói lọi nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước; tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Về mặt ngoại giao, Hiệp định Paris đã kết thúc thắng lợi cuộc thương lượng kéo dài giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sau gần 5 năm Hội nghị bốn bên công khai và sau hơn hai năm (1971 – 1973) tiến hành thảo luận thực chất trong cuộc "đàm phán bí mật” giữa đoàn Lê Đức Thọ và đoàn Henri Kissinger. Đây thực sự là việc chưa từng có trong lịch sử thế giới mà ta gọi là "vừa đánh, vừa đàm”. Kết quả cuộc thương lượng đã đáp ứng mong đợi của mọi người; nó làm cho toàn thế giới trút được gánh nặng tinh thần và tâm lý đè trĩu hàng chục năm.
P.V 
(Ghi theo lời kể của các ông Võ Văn Sung
và Nguyễn Khắc Huỳnh -Thành viên đoàn 
đàm phán VNDCCH)
Thời tiết hiện tại

Nhiều mây, không mưa
Cập nhật lúc: 13h ngày 14/01/2013
Nhiệt độ:16 oC
Thời tiết :Nhiều mây, không mưa
Độ ẩm :75 %
Hướng gió :Lặng gió

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét